Welcome, Guest
Username: Password: Remember me
  • Page:
  • 1

TOPIC: CÁC THÁNH TRONG THÁNG 7

CÁC THÁNH TRONG THÁNG 7 12 years 2 months ago #2331


  • Posts:1950 Thank you received: 658
  • Xin cho con luôn biết tín thác vào Chúa ! Khi an vui cũng như khi sầu đầy.
  • Văn Quyền.Vianney's Avatar
  • Văn Quyền.Vianney
  • Platinum Boarder
  • OFFLINE
CÁC THÁNH TRONG THÁNG 7
cacthanh1-11a.jpg

Thánh Tôma Tông Đồ (Thế Kỷ I)- Lễ nhớ: 3 tháng 7.
Thánh Tôma tông đồ được mô tả như một con người sáng suốt, thực tế quả cảm, theo Phúc âm của Gioan. Ông có biệt danh là Didymô nghĩa là song sanh. Tôma đoán chắc những việc lớn lao sẽ diễn ra ở Giêrusalem khi các môn đệ cùng Chúa về Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua. Chúng ta hãy cùng đi để chết với Người. (Gio 11,6). Sau khi Chúa sống lại, trong lúc ông đi vắng về, nghe kể lại, ông vẫn một mực không tin. Nếu tôi không nhìn thấy lỗ đinh nơi tay Người, nếu tôi không để tay tôi vào cạnh sườn Người thì tôi không tin” (Gio 20,24-29). Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra với đông đủ các môn đệ, Chúa xin ông sờ đụng các vết thương của Ngài. Tôma không biết làm gì hơn là phủ phục và tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa tôi!” Một dịp Chúa để cho Tôma và qua Tôma Chúa cho chúng ta một chân lý trên một bình diện cao thượng hơn là trên phương diện giác quan và khoa học. “Bởi vì ngươi đã thấy và tin, hỡi Tôma, phúc cho những ai không thấy mà tin.”

Tương truyền, Tôma đã giảng đạo cho người Mède và người BaTư, rồi qua cả Ấn Độ, nơi ngày nay có nhiều cộng đoàn Kitô Giáo theo lễ điển Malabar còn làm chứng tá cho tương truyền ấy.
Lễ nhớ: 3 tháng 7.

Nữ Thánh Elisabeth Bồ Đào Nha (1271-1336)- Lễ nhớ: 4 tháng 7.

Elisabeth là ái nữ của Pierre III Aragon và Constance, khi rửa tội được mang tên thánh Elisabeth để kính nhớ bà cô là thánh nữ Elisabeth Hung Gia Lợi. Một đời với nhiệm vụ hòa giải giữa cha và ông nội. Lúc lên 12 tuổi đã kết bạn với vua Denis Bồ Đào Nha và lúc lên 18 tuổi sinh hạ đứa con đầu trong hai con.
Trong đời hoàng hậu., chỉ biết sống nhặt nhiệm, cầu nguyện và làm việc bác ái. Mỗi ngày đọc kinh nhật tụng. Chồng bà là một ông vua biết cai trị nhưng là một người chồng ăn chơi. Elisabeth phải nhẫn nhục chịu đựng sự bất tín. Nhưng hoàng tử Alphongsô không chịu nỗi lối sống sa đọa của cha, nên đã hai lần nổi loạn, dùng khí giới chống lại. Bà mẹ Elisabeth đã giàn xếp giữa hai cha con, đã cởi ngựa xông vào giữa trận chiến để cản ngăn. Vua Denis một hồi nghi rằng Elisabeth xúi con khởi loạn, đã bắt vợ đi đày, nhưng khi hiểu biết sự thật đã phong vợ quản trị một thành phố. Vua qua đời sau cơn đau đớn, được vợ săn sóc tận tình và giúp phần linh hồn. Elisabeth từ bỏ mọi chức vụ, mặc áo dòng ba Phanxicô và vào ẩn trong tu viện Clara gần đó. Khi con bà là Alphongsô đem quân đánh vua Castille để báo thù cho em gái, Elisabeth lại lên đường đi giàn xếp, ngã bệnh và qua đời ngày 4 tháng 7 năm 1336. Người được tôn phong hiển thánh năm 1626 do đức Urbanô XIII-Một vị thánh của Hòa bình.
Có 12 vị nữ thánh hoặc Chơn Phước mang tên Elisabeth
Lễ nhớ: 4 tháng 7.

Thánh Antoine-Marie Zaccaria (1502-1539)- Lễ kính: 5 tháng 7.

Sinh tại Cremone (Ý), rất có lòng thương yêu người nghèo, làm y-sĩ, rồi chịu chức linh mục. Người định cư ở Milan và sang lập dòng Tu sĩ thánh Phaolô, những tu sĩ có lời khấn nhưng lại sống giữa đời; phục vụ cách riêng tại nhà thờ thánh Barnabê ở Milan, nên cũng được gọi là các cha Barnabite. Các cha dòng chuyên giúp xứ, giáo dục thiếu niên và giảng cấm phòng. Thánh nhân cũng thiết lập dòng các nữ tu Thánh Phaolô.
Lễ kính: 5 tháng 7.

Thánh nữ Maria Goretti (1890-1909)- Lễ nhớ: 6 tháng 7.
Chị cả trong một gia đình đạo đức, đông con và nghèo ở miền Marais-Pontius (Ý), Maria phải giúp mẹ lo nội trợ trong khi mẹ góa bụa phải lo việc đồng áng. Một hôm, Maria chống cự lại những đòi hỏi của anh Alexandrô, một người hàng xóm 18 tuổi, nên bị anh đâm 18 lát dao! Cô không chết ngay, tha thứ cho kẻ sát nhân và cầu cho anh cũng được Chúa tha thứ.
Năm 1950, Maria được Đức Piô XII tôn phong Hiển Thánh và có Alexandro đã trở lại tham dự. Đây là vị Nữ thánh tử đạo đầu tiên có người sát hại mình tham dự. Năm 1985, khi chị Marie-Clémentine Annarite được phong Chơn Phước cũng có người sát hại chị cò mặt.
Nữ thánh Maria Goretti là người đầu tiên được tôn phong hiển thánh của thế kỷ XX.
Lễ nhớ: 6 tháng 7.

Thánh Bênêđictô, Tu Viện Trưởng - Lễ Nhớ: 11 tháng 7
Bênêđictô chào đời năm 480, tại Norcia. Sự giáo dục đạo đức trong gia đình đã sớm làm cho ngài trưởng thành về phương diện luân lý. Dù mới chỉ là một thiếu niên 16, 17 tuổi, mà ngài đã có những tư cách thật khôn ngoan, không ham chi những thú vui, khoái lạc, coi thường danh vọng, của cải trần gian.
Sau những ngày hạnh phúc sống dưới mái nhà êm ấm, ngài được gửi đi du học tại La Mã. Ðang mải mê việc học thì Bênêđictô tìm ra ý Nhiệm Màu của Thiên Chúa. Ngài vào hoang địa Subiacô cách La Mã 40 dặm để sống đời tịch liêu thân mật với Chúa.
Danh tiếng và lòng đạo đức thánh thiện của ngài được truyền tụng khắp nơi. Không một ai mà không biết đến tên ngài.
Gần nơi ngài trú có một nhà dòng, vị Bề Trên vừa mới mất, nên toàn thể cộng đồng đã đến xin thánh nhân kế vị và coi sóc. Trước lời van xin tha thiết, ngài đã bằng lòng. Sau một thời gian, ngài lại trở về hang cũ, sống mật thiết với Chúa hơn.
Số người đến xin làm môn đệ ngài càng ngày càng đông. Ngài phải lập ra nhiều nhà cho họ trú. Với bầu nhiệt huyết sẵn có, ngài ra sức giảng thuyết cho dân chúng xa rời các ngẫu tượng trở về với Thiên Chúa. Kèm theo lời giảng, Chúa đã dùng tay ngài thực hiện những phép lạ cả thể, chữa bệnh tật cho kẻ chết sống lại. Chúa cũng ban cho thánh nhân ánh sáng để thấu rõ lòng người, biết trước công việc xảy ra. Cuộc sống của ngài đã chứng minh lòng tin cậy nơi Chúa rất sâu xa, và nhân đức khó nghèo trọn hảo.
Vì tuổi già sức yếu do thời gian chay tịnh, hy sinh hãm mình, ngià đã mong ước về cùng Chúa sau những ngày dọn mình sốt sắng. Nhiều phép lạ xuất hiện sau cái chết của ngài, làm cho danh thơm và sự nghiệp của ngài loan truyền, tồn tại mãi mãi. Chính sự phát triển mau lẹ của nhà dòng ở khắp năm châu đã nói lên được điều đó.
Lễ Nhớ: 11 tháng 7

Thánh Henri (973-1024)- Lễ nhớ: 15 tháng 7
Công tước Bavière, được phong vua Germania năm 1002 và năm 1014, được tuyên bố hoànng đế hoàng triều thành Lamã Germanie tại Lamã dưới danh hiệu Henri II. Người cổ võ và truyền bá đức tin, xây dựng cải tổ nhiều nhà dòng theo luật cluny: nhà thờ tổng giáo phận Bamberg do người xây cất và thiết lập, địa phận còn lưu giữ phần mộ của Người. Tuy nhiên, Người không dùng quyền thế trần để lấn át quyền lợi giáo hội.
Cùng với vợ là thánh Gunégonde người sống như anh em. Được tôn phong hiển thánh năm 1146 do Đức Eugeniô III.
Lễ nhớ: 15 tháng 7
Tám vị khác cùng mang tên Henri.

Thánh Camilô Lellis linh mục (1550-1614)- Lễ nhớ: 18 tháng 7
Sinh hạ tại Chieti trong rạng núi Abruzze (Ý), vào quân ngũ và thích cờ bạc. Được ơn trở lại, người vào dòng Phan sinh và làm nghề Y tá tại Lamã. Nhận thấy tình cảnh đáng thương của các bệnh nhân trong các nhà thương. Năm 1582, Người thành lập dòng giáo sĩ giúp bệnh nhân gọi là Dòng Camilô. Dấu hiệu riêng là một cây thánh giá đỏ khâu trên áo dòng đen. Theo lời khuyên của thánh Philiphê Neriô, năm 1584, người nhận chức linh mục. Cả đời đi khập khểnh vì một vết thương ở chân rất đau đớn, người vẫn đi giúp bệnh nhân quên ăn quên ngủ. Dòng bành trướng mau lẹ, tổ chức cả những xe cứu thương.
Năm 1930, Đức PIÔ XI đặt thánh nhân làm quan thầy các nhân viên bệnh viện và các bệnh nhân.
Lễ nhớ: 18 tháng 7.

Thánh Laurensô Brindisi,Linh Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1559-1619)- Lễ nhớ: 21 tháng 7

Jules César Russô sinh tại Brindisi, vùng Apulia, miền Nam nước Ý, vào năm 1559. Suốt cuộc đời ngài muốn trở thành một chiến sĩ của Thiên Chúa, một người hướng dẫn các linh hồn. Vì thế ngài đã xin gia nhập dòng thánh Phanxicô ở Vêrôme. Năm 1575, ngài được mặc áo dòng với tên là Laurensô Brindisi. Những năm học tại Padua đã giúp ngài trở thành một học giả, thông thạo các thứ tiếng Pháp, Ðức, Hy Lạp, Syrie, Do Thái. Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng để bắt tay vào việc cải cách. Trước hết bằng lời giảng dạy: ngài đã không lý luận suông nhưng đặt vào lời Chúa một sức sống hầu lôi kéo các linh hồn. Danh tiếng ngài vang dội khắp Trung Âu. Ngoài ra, ngài còn là một người hăng say với Thập Tự Quân, ngài đã dẫn đầu đạo binh Hung Gia Lợi, với Thánh Giá cầm tay, để chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ. Và ngài đã thành công năm 1601. Ngài còn là một nhà ngoại giao tài giỏi của Ðức Giáo Hoàng. Ngài có một đời sống kết hợp thân mật với Ðức Kitô một cách đặc biệt. Ngoài những hoạt động bên ngoài, ngài dành rất nhiều thời giờ cho việc cầu nguyện và thực tập các nhân đức.
Năm 1619, đang khi thi hành sứ mạng được trao phó ở Lisbone, ngài đã từ biệt cõi đời trong sự nghèo khó, đơn sơ và thánh thiện. Ngài đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị bảo vệ đức tin Công Giáo.
Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII đã tấn phong ngài lên bậc Hiển Thánh năm 1881 và Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tôn vinh ngài làm Tiến Sĩ Giáo Hội năm 1959.
Lễ nhớ: 21 tháng 7

Bà Thánh Brigitte - Thụy Điển (1303-1373)- Lễ nhớ: 23 tháng 7.
Sinh hạ trong một gia đình quí phái Thụy Điển và kết bạn sớm, có 8 đứa con, trong số ây có nữ thánh Catarina Thụy Điển. Sau một cuộc hành hương ở Compostelle, bà với chồng đồng lòng đi tu. Nhưng ít lâu sau, chồng qua đời. Thánh nhân sống một cuộc đời nghèo khó, chiêm nghiệm. Những cuộc suy ngắm của Bà được lưu lại thành những tác phẩm đạo đức, gọi là “những mạc khải,” làm cho Bà trở nên rất danh tiếng. Phần lớn về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, về ngày tận thế, về hỏa ngục. Như nữ thánh Catarina Thụy Điển con của Bà, thánh Brigitte hằng thôi thúc các Giáo Hoàng ở Avignon (Pháp) phải trở về Lamã. Năm 1363, thánh nhân lập Dòng Chúa Cứu Chuộc. Bà qua đời tại Lamã sau cuộc hành hương ở thánh địa trở về. chính con Bà, Catarina tiếp tục công việc. Thánh nhân được coi là quan thầy Thụy Điển.
Lễ nhớ: 23 tháng 7.

Thánh Giacôbê Tiền – Tông đồ tử đạo (khoảng 44)- Lễ nhớ: 25 tháng 7.
Như em là thánh Gioan tông đồ, Giacôbê giữ một vai trò trọng yếu trong nhóm mười hai. Người đứng vào hang thứ hai hay thứ ba sau Phêrô trong bản danh sách chính thức. Ông được chọn với Phêrô và Gioan để làm chứng nhân việc con gái ông Jaire sống lại, việc Chúa biến hình và việc Chúa hấp hối trong vườn Gietsimani (MC 5,37:9,2;14,33). Một ngư phủ tại Betsaiđa trong một gia đình xem ra khá giả, thân sinh, ông Giêbêđê, có người làm thuê (MC 1,19-20) và em là Gioan quen biết thầy cả thượng phẩm (Gio 18,15-16). Giacôbê và Gioan Được Chúa gọi là Boanergès nghĩa là con sấm sét, biệt danh (Mc 3,17) ám chỉ những người nóng tính, được chứng minh trong hai dữ kiện được Luca (9,54) và Marcô (10, 35-41) kể lại.
Giacôbê bị giết “bằng gươm” theo lệnh của Herode Agrippa (CV 12,2) vào khoảng năm 42. Vào cuối thế kỷ II, Clement Alexandria quả quyết, “theo những người trước” rằng người tố cáo Giacôbê đã trở lại và chịu chết một lần với Ngài.
Theo tục truyền, Giacôbê có sang giảng đạo ở Tây Ban Nha. Nhưng sử liệu cho thấy sự kiện chỉ được nói đến lần đầu vào thế kỷ thứ VII và Phaolô là vị thừa sai đầu tiên khi Giacôbê đã chết và giáo hội đầu tiên ở Tây Âu là Giáo Hội Lamã, Đức Innocent I công bố rõ ràng năm 416 như vậy.
Việc tôn sùng thánh nhân ở Compostelle Tây Ban Nha dựa trên một bản văn cho rằng năm 808, ông Theodomir đã tìm thấy xác thánh nhân, “do một ngôi sao lạ chỉ” và rước về Compostelle (là Campus stellae: địa thế ngôi sao). Một đại thánh đường được xây lên và nơi đây trở nên một trung tâm hành hương lớn kính viếng thánh tích của vị tông đồ được hình dung như một người hành hương tay cầm gậy, mang theo dấu hiệu một chiếc vỏ trai (phải chăng dùng để uống nước).
Lễ nhớ: 25 tháng 7.

Thánh GioanKim (thế kỷ I)- Lễ nhớ: 26 tháng 7.
Thánh GioanKim là thân phụ của Đức Mẹ. Về đời sống của thánh nhân chồng của Bà thánh Anna thân mẫu của Đức Mẹ, người ta hay rập theo hình ảnh của ông Giacaria, thân phụ của Gioan tiền hô. Thánh Gioankim được tôn kính và mừng lễ cùng một lúc với bà thánh Anna. Thánh Anna rất được dân chúng sùng kính và thánh Gioankim cũng được đặc biệt nhắc đến.
Song thân phụ mẫu của Đức Mẹ được tôn kính như những người biết khiêu động nơi con cái sự đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa.
Lễ nhớ: 26 tháng 7.

Thánh Anna, thân mẫu của Đức Mẹ - Lễ kính: 26 tháng 7.

Những gì chúng ta biết về bà thánh Anna đều do cuốn Tiền Phúc âm Giacôbê, viết vào thế kỷ thừ II. Tuy nhiên câu chuyện mang nhiều nét vui tươi, độc đáo, đầy ý nghĩa tượng trưng sự thánh thiện.
Nếu Anna phải chịu nhiều khinh miệt và đau khổ vì son sẻ, thì để nói lên rằng muốn cộng tác vào công cuộc cứu chuộc, phải thông phần đau khổ của Chúa. Và như vậy, Anna mới được Chúa ban cho một người con vô tiền khoáng hậu. Một ngày kia, khi Anna đang cầu nguyện thì một thiên thần hiện ra loan báo bà sẽ sinh hạ một người con. Anna đã hứa hiến dâng cho Thiên Chúa. Người con đó là Maria, Mẹ Chúa Giêsu. Anna đã kết bạn với Gioankim lúc lên 20 tuổi và sinh hạ Maria lúc đã 40. Và hai ông bà đã qua đời trước ngày Chúa Giêsu ra đời.
Việc tôn sùng Bà thánh Anna có từ lâu ở Đông phương và truyền qua Tây phương do đạo binh thánh-giá. Người ta được biết Bà thánh Anna được đặc biệt tôn kính ở xứ Bretagne như vị thánh quan thầy. Tại đây, có môt ngôi thánh đường kính thánh nữ ở Auray, được xây cất tại nơi Thánh nữ đã hiện ra với một pho tượng được tôn kính ở trong nguyện đường cổ xưa hơn nữa. Thánh đường Bà thánh Anna Auray trở nên một trung tâm hành hương lớn.
Bà thành Anna cũng được đặc tôn kính như quan thầy của xừ Québec (Gia-na-đại), vương cung thánh đường Sainte Anne de Beaupré là một trung tâm hành hương của Bắc Mỹ.
Lễ kính: 26 tháng 7.

Thánh Ignace Loyola (1491-1556)- Lễ nhớ: 31 tháng 7.
gốc Basque Tây Ban Nha, Inigo Loyola là một nhá quý tộc của phó vương Navarre, bị thương trong trận chiến vây hãm thành Pamperlune năm 1521. Trong thời gian phục hồi sức khoẻ, Người được ơn trở lại và muốn hiến thân sống âm thầm khổ hạnh. Người đi hành hương ở tu viện Montserrat gần Barcelone và vào ẩn trong một hang động gần đó gọi là Manrèze, được ơn chiêm nghiệm cao độ. Ở đây, Người thấy rõ ơn gọi của mình phải hướng về hoạt động tôn đồ. Sau một cuộc hành hương Giêrusalem, Người bắt đầu đào luyện cho có một nền học vấn quy củ tại đại học Alcola và Salamanque. Rồi Người đi đại học Paris lấy bằng giáo sư nghệ thuật. Từ khi ở bộng đá Manrèze, Người ghi lại mọi kinh nghiệm thiêng liêng và tại Paris, Người viết lại, hình thành cuốn “Việc đạo đức thiêng liêng” dành cho những ai muốn hiến thân cho Chúa. Trong lúc ở Paris, Người bắt đầu chiêu mộ những người đồng chí hướng, đầu tiên là Phanxicô Xavie, Pierre Fabre, Lamez, Salmeron. Năm 1534, họ đưa nhau đến nhà thờ hầm nơi thánh Denis tử đạo, trên sườn đồi Montmartre, làm lời khấn hứa đi thánh địa giảng cho dân ngoại, hoặc nếu không thể được thì tự đặt mình dưới sự điều khiển của Đức Giáo Hoàng cho mọi công tác người muốn. Trên đường đi Lamã, họ được chịu chức linh mục (ngoại trừ Fabre đã được chịu chức). Năm 1540, Ignance và các bạn được Đức Phaolô III cho thiết lập thành dòng tu: Dòng Tên thành hình. Năm sau, Ignace được bầu Bề Trên Tổn quyền. Các sĩ tử ngoài ba lời khấn tu sĩ, còn them lời khấn riêng vâng lời Đức Giáo Hoàng, Ngài cụ thể chỉ định công tác Ngài muốn. Ngay khi Ignance còn sống, dòng đã lãnh nhận hiều công việc khác nhau (giảng, dạy học, truyền giáo) và rất phồn thịnh. Dòng Tên giữ vai trò trọng yếu trong giáo hội, khởi đầu là cuộc phục hưng, mà lịch sử quen gọi là cuộc chống cải cách công giáo. (Contre-Réforme Cathlique). Ignance và dòng Tên thực thi khẩu hiệu: Ad Majorem Dei Gloriam, làm vinh danh Thiên Chúa, bằng sự thánh hóa cá nhân và công việc tông đồ.
Ignance được tôn phong Hiển Thánh (cùng lúc với Phanxicô Xavie) năm 1622, được Đức Piô đặt làm quan thầy các cuộc tĩnh tâm.
Lễ nhớ: 31 tháng 7.

Điển Ngữ Các Thánh - Lm Hồng Phúc
Tin Mừng không chọn lựa đất sống - Tình Yêu chẳng chối từ gian nan
The administrator has disabled public write access.
  • Page:
  • 1


VISITORS SINCE JANUARY 7, 2012