Welcome, Guest
Username: Password: Remember me

TOPIC: Hiệp thông Tin Mừng hôm nay

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 3 months ago #61989

.
Lễ Hiển Linh


3Vua.jpg



Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa quan trọng trong Mùa Giáng sinh. Đức Kito Ngôi Lời Nhập Thể đã mặc lấy thân xác yếu hèn của con người để thực hiện chương trình cứu rỗi nhân loại. Các nhà đạo sĩ là những người đầu tiên đã nhận ra Chúa. Họ đã vội vã lên đường tìm đến theo dấu ngôi sao lạ. Cuộc hành trình của họ không mấy suông sẻ, có lúc mất ánh sao dẫn đường. Nhưng với đầy lòng tin và sự quyết tâm họ đã tìm đến nơi vị vua mới sinh để thờ lạy và dâng cúng những gì quý giá nhất.

Sau khi long trọng cử hành lễ Giáng Sinh, giáo hội lại mừng ngày Chúa tỏ mình cho các nhà đạo sĩ, những người đại diện cho dân ngoại. Như thế, việc đón nhận ơn cứu độ không chỉ dành cho dân được tuyển chọn mà cho tất cả nhân loại.

Là con của Chúa chúng ta được mời gọi làm ánh sao chỉ đường cho những người chưa nhận biết Chúa bằng nhiều cách thức khác nhau. Nếu như aasnh sao xưa là phương tiện dẫn 3 đạo sĩ đến với Chúa, thì nay, nhờ mầu nhiệm Thiên Chúa mặc khải, lối sống của con người tín hữu cần tỏa sáng để nối dài ngôi sao xưa chiếu sáng thế gian. Nếu như xưa các đạo sĩ đã dùng khả năng và kiến thức của mình để tìm đến chân lý, thì nay người tín hữu cũng cần dùng đến tài năng Chúa ban, để đến với tha nhân và phục vụ Chúa.

Nếu các nhà đạo sĩ có lúc không còn thấy ánh sao dẫn đường nhưng vẫn tiếp tục hành trình thì lúc nào đó trong đêm tối của cuộc đời chúng ta kiên nhẫn giữ vững lòng tin tưởng và trung tín. Chính lối sống sự phục vụ và lòng trung thành của người tín hữu sẽ là ánh sao nối dài cho ánh sáng sao xưa. Chúng ta ta có bổn phận mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người và mọi nơi mọi lúc tùy theo hoàn cảnh khả năng.

Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được học hỏi, hiều biết về kinh thánh nhưng lại có một tấm lòng quảng đại sẵng sàng đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường dấn thân vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng được diễm phúc diện kiến Thiên Chúa nơi máng cỏ, hang bò lừa với vóc dáng một Hài Nhi nhỏ bé đơn sơ khó nghèo. Các ông là những người tuy xa mà lại gần. Họ hân hoan hạnh phúc được gặp Chúa Con.

Ngày Chúa tỏ mình cho dân ngoại nhắc nhớ chúng con : ơn cứu độ của Chúa dành cho tất cả mọi người qua những cách thức khác nhau. Chúng con cần ý thức về những ánh sao mà Chúa đã gửi đến trong đời, đồng thời ý thức về bổn phận làm ánh sáng nối dài, ánh sao giúp mọi người tìm đến với Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con noi gương ba nhà đạo sĩ đến dâng lên Chúa Hài Đồng ba lễ vật : Vàng là lòng mến, hương trầm là kinh nguyện và mộc dược là hy sinh để rồi nhận ra ánh sao Chúa gởi đến qua những biến cố cuộc đời của chúng con.
Last Edit: 7 years 3 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 3 months ago #61967

.
Mầu nhiệm nhập thể


a) Ý nghĩa lễ Giáng Sinh

Giáng Sinh là biến cố nhập thể. Nhập thể có nghĩa là Con Thiên Chúa xuống thế, mang thân phận con người chúng ta, để ban cho chúng ta tư cách làm con Thiên Chúa. Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm của tình yêu. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”(Ga 1,14); hoặc như Luca diễn tả: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”(Lc 2,11). Chính vì thế, khi nhập thể, Ngôi Lời đã có một tên gọi mới : Emmanuel = Thiên – Chúa – ở – cùng – chúng – ta.

Như vậy, chính qua Thánh Kinh mà chúng ta tìm được ý nghĩa và mục đích của biến cố giáng sinh. Cho nên, chúng ta không thể mừng biến cố Giáng sinh mà lại không có mặt Đấng Emmanuel, không thể gọi là lễ Giáng Sinh mà lại vắng Chúa Hài đồng.

Với những người không tin vào Đấng Cứu Độ, lễ Giáng Sinh có thể chỉ là dịp để mua sắm, tặng quà, ăn uống, vui chơi. Và họ cho thế là đủ. Nhưng với chúng ta, những người tin vào Đấng Emmanuel, điều quan trọng nhất là gặp được Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa đã cư ngụ giữa chúng ta.

Thật vậy, biến cố Giáng Sinh chính là cuộc gặp gỡ giữa Đất-Trời, giữa con người với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ ấy cần sự có mặt của hai bên. Về phía Thiên Chúa, Ngài đã hòan tất một chặng đường dài qua việc nhập thể và đi vào thế giới con người để tìm gặp con người. Về phía nhân lọai, con người chỉ cần bước đi một quãng đường ngắn như các em mục đồng tại Belem, hay một quãng đường dài hơn một chút như các đạo sĩ Đông phương, là chắc chắn sẽ gặp được Đấng Emmanuel. Đó chính là ý nghĩa và mục đích của lễ Giáng Sinh.

Việc Ngôi Hai nhập thể là một mầu nhiệm, một trong ba mầu nhiệm vĩ đại nhất trong Đạo là Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, Ngôi Hai xuống thế làm người và chịu chết chuộc tội cho lòai người. Xem ra với con mắt lòai người , việc nhập thể ấy không thể thực hiện được, nhưng đã trở thành hiện thực trong Lễ Giáng sinh hôm nay.

Truyện : Đàn ngỗng tìm chỗ trú.

Vào một mùa Giáng Sinh nọ, trước giờ đi lễ, vị chủ nông trại đang thưởng thức nhạc Giáng Sinh, bỗng đâu cả đàn ngỗng của ông tụ lại trước sân nháo nhác tìm chỗ trú. Chúng vừa đói, vừa lạnh, lông cánh rối bời. Tất cả người làm đều đã nghỉ cả, người chủ cũng đều sắp đóng cửa về Thành phố dự Thánh Lễ. Bởi vậy ông bèn ra lùa đàn ngỗng vào chuồng, nhưng chúng không biết ông nên dù gào thét khản cả tiếng, chạy ngược chạy xuôi, đã rời cả đôi chân mà vẫn không đem được một con nào vào chuồng. Thấy vậy ông thầm ước với mình: “Ước gì tôi được làm ngỗng trong chốc lát, để tôi có thể dùng tiếng lòai ngỗng mà nói cho chúng hiểu ước muốn của tôi và cho chúng biết đâu là chốn hiểm nguy, đâu là nơi an tòan”. Bỗng chốc, ông đã trở thành một con ngỗng đứng giữa bầy như ước nguyện.

Có thể chúng ta sẽ coi là vô lý khi thấy người biến thành ngỗng. Thế nhưng, có một điều khác còn phi lý hơn mà Giáo hội đang mời gọi chúng ta chiêm ngắm, đó là hang đá Belem, nơi Thiên Chúa Vua Cả trời đất giành lấy thân phận làm người, sinh ra trong hang bò lừa máng cỏ. Ngài làm người để rồi sẽ dùng ngôn ngữ của lòai người mà chỉ dạy cho con người lối về quê thật (Đ.Ô Nguyễn văn Tài).


b) Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh ?

Khi hỏi tại sao Thiên Chúa giáng sinh làm người, chúng ta chỉ có thể trả lời là Thiên Chúa yêu thương lòai người. Theo cha Cantalamessa, vị giảng thuyết của phủ Giáo hoàng, thì không phải Thiên Chúa nhập thể để có một người bên ngòai Ngài để yêu thương Ngài trong một cách thế cao nhất, một cách xứng đáng với Thiên Chúa (như Duns Scott chủ trương) nhưng là Thiên Chúa “yêu” và “yêu trước” (x.1Ga 4,10,19). Thiên Chúa muốn có sự nhập thể của Ngôi Con không phải để có một người bên ngòai Ba Ngôi yêu mến Ngài cách xứng đáng nhưng để có người cho Ngài yêu một cách xứng đáng với Ngài, nghĩa là yêu vô hạn.

Trong ngày Giáng Sinh, khi Hài nhi Giêsu giáng trần, Chúa Cha có người để yêu trong một cách thế vô hạn bởi vì Chúa Giêsu gồm cả con người và Thiên Chúa. Nhưng không chỉ Chúa Giêsu mà thôi, nhưng là tất cả chúng ta cùng với Ngài. Chúng ta được bao gồm trong tình yêu này, khi trở thành những thành viên của nhiệm thể Chúa Kitô, “con trong Con”. Lời tựa trong sách Phúc âm của thánh Gioan nhắc nhở chúng ta: “Những ai đón nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa”.

Do đó, Đức Kitô thực đã từ trời xuống thế “để cứu rỗi” chúng ta, nhưng điều khiến Ngài bỏ trời mà xuống thế gian để cứu rỗi chúng ta là tình yêu, không gì khác hơn là tình yêu.

Truyện : Hoàng tử Alexis.

Truyện cổ nước Nga thuật lại rằng vào thời Trung cổ, Hòang tử Alexis của Nga cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy nga tráng lệ, trong khi đó dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis không phải là người không biết trắc ẩn trước cảnh cơ cực của thần dân. Để cải tiến cuộc sống của họ, ông bỏ ra mỗi ngày ít thời giờ để thăm viếng họ. Tuy nhiên, dù cố gắng đến đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng tín nhiệm và yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi lần thăm viếng, ông trở về Hòang cung, lòng không bao giờ cảm thấy vui.

Một ngày nọ, dân chúng bỗng phát hiện được một người lạ mặt đi vào khu xóm của họ. Trong cách ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh muốn săn sóc những người già cả và mọi bệnh nhân, anh thuê một túp lều trong ngõ hẻm và bắt đầu đi khám bệnh cho những người nghèo. Điều đặc biệt là viên bác sĩ này không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí cho các bệnh nhân.

Không bao lâu, anh đã chinh phục được lòng quí mến của đám dân nghèo, đó là điều mà trước đây hòang tử không bao giờ đạt được. Người Bác sĩ ấy trở thành một người của xóm nghèo, và dần dần anh biến đổi bầu khí tinh thần của xóm này. Ngày ngày anh dàn xếp các cuộc cãi vã, tranh giành, anh hòa giải những người thù óan nhau và giúp đỡ mọi người sống xứng với phẩm giá con người hơn.

Thật ra, người Bác sĩ trẻ đó chính là Hòang tử Alexis – người đã bỏ cung điện giầu sang đến sống với các thần dân nghèo và trở nên một người trong họ (Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 134-135).


c) Ngày Đất-Trời gặp nhau.


Giáng Sinh là giây phút Đất Trời gặp nhau, qua đó cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được thực hiện. Đây là giây phút Thiên Chúa làm người, đây là giây phút Con Thiên Chúa nhận lấy bản tính lòai người để giao hòa nó với Đấng tạo dựng nên nó. Trong bài thánh ca “Đêm thánh vô cùng” chúng ta hát :”Đất với trời se chữ đồng”. Đúng như vậy, trời đất gặp nhau bởi vì Thiên Chúa xuống thế làm người để chúng ta làm Thiên Chúa. Ngài muốn chia sẻ với chúng ta thân phận con người để ở với chúng ta, gần gũi chúng ta, để chúng ta thế nào Ngài cũng trở nên thể ấy. Thật là một cuộc gặp gỡ kỳ diệu không thể tưởng tượng nổi.

Truyện : Muốn đồng thân phận.

Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng nước bùn. Những khách khác thấy vậy cười nhạo ông. Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là quần áo của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó vị quan lớn cầm tay cụ già đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ nữa (Góp nhặt).

d) Đức Giêsu trở nên “Đấng Chí Trung Hòa”.

Đức Giêsu đã sinh ra trở thành Đấng Emmanuel : Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ngài ở với lòai người, Ngài sẽ chết trên thập giá và sống lại vinh quang để trở nên Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và lòai người.

Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Hòa”. Chữ Trung : O gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông, vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu Kitô là trung tâm trời đất. Còn Chí Hòa, chữ Hòa gồm chữ Hòa là lúa và chữ Khẩu là miệng : *P* cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hòa đến cùng cực để trở nên sự sống của lòai người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hòa đồng cùng cực :”Chí Hòa”. Thật Người là Đấng Chí Trung Hòa để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn khỏang không gian nào phân ly nữa…

Đức Giêsu Kitô sinh là Đấng Chí Trung Hòa đem niềm vui trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho nhân lọai trong tình yêu hợp nhất, một sự sống vô tận. Không còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa (Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22-23)).


*. TÂM TÌNH NGÀY LỄ GIÁNG SINH

1. Ý tưởng về ngày lễ Giáng sinh

Hôm nay mọi người đều nô nức đi dự lễ, kể cả những người ngòai Công giáo. Tuy mừng lễ nhưng mỗi người có một cái nhìn về ngày lễ : họ cũng mừng lễ, chúng ta cũng mừng lễ, nhưng tâm tình về ngày lễ thì khác nhau. Vậy chúng ta có tâm tình nào ? Với ý tưởng gì ? Ta có những ý tưởng tốt đẹp và cao quí của ngày lễ Giáng sinh không ? Hay chỉ nghĩ rằng hôm nay là ngày lễ để vui chơi, để có dịp gặp nhau hoặc có dịp khoe thời trang ?

Truyện : Ý tưởng về Lễ Giáng sinh.

Một giáo sư tâm lý của một trường đại học tại Hoa kỳ ra một bài thi để dò xem ý tưởng của 40 sinh viên trong lớp của mình. Trước hết ông bảo họ lấy giấy bút ra viết chữ “Lễ Giáng Sinh”, rồi ông nói : “Bây giờ các anh chị hãy viết vào sau chữ ấy cái ý nghĩ đầu tiên mà các anh chị liên tưởng đến về ngày lễ ấy.
Khi họ nộp quyển, ông coi lại thì thấy có những chữ sau đây : cây giáng sinh, dây kim tuyến, tặng phẩm, gà tây, bài ca giáng sinh và ông già Noel, không có một ai viết “Ngày Chúa Giêsu ra đời”.

Ngày lễ Giáng sinh không còn ý nghĩa cao quí của nó nữa, người ta đã tục hóa lễ Giáng Sinh, người ta chỉ coi lễ Giáng Sinh là một ngày vui chơi cho mọi người, thậm chí có người lợi dụng lễ Giáng Sinh để kinh doanh.

Hôm nay chúng ta nghĩ gì về lễ Giáng Sinh ? Nếu chúng ta quên hay không biết thì chúng ta hãy nhớ lại rằng : Chúng ta mừng lễ Giáng Sinh là có ý kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần, ngày Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy nhìn vào chữ Emmanuel hay chữ Noel để nhớ đến ý nghĩa của ngày lễ.

2. Chỉ có tình yêu đáp trả tình yêu

Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã sai Đức Giêsu Kitô, người Con yêu duy nhất của Ngài xuống thế làm người, chung sống với lòai người, để cứu độ lòai người. Cách thức Thiên Chúa dùng để biểu lộ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta cũng phải trở nên mẫu mực của tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa và dành cho nhau. Nghĩa là tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và dành cho nhau cũng cần một hình thù cụ thể nào đó, kẻo người ta sẽ bảo tình yêu đó chỉ ở trên đầu môi chót lưỡi :

Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào.

Đối với Chúa, chúng ta chỉ có thể đáp trả lại tình yêu của Ngài bằng cách thi hành trọn vẹn thánh ý Ngài như một đứa con thơ dễ bảo. Còn đối với tha nhân thì chúng ta phải có những việc làm cụ thể hơn.

Trong dịp lễ Giáng Sinh chúng ta thường mua những món quà đắt tiền để tặng nhau, tuy nhiên giá trị của quà tặng lại tùy thuộc vào tấm lòng của người tặng quà. Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Cũng như cuộc sống không thể vắng bóng tinh thần trao ban. Ai trong chúng ta cũng có cái để trao ban. Đó có thể là chúng ta biết để thời giờ để hỏi thăm, gặp gỡ bà con thân thuộc, người cùng khu xóm. Khi chúng ta biết rộng lòng giúp đỡ vật chất cho những người nghèo, những nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Khi chúng ta biết tặng cho những người mình yêu mến như cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu những món quà bất ngờ thắm thiết tình người.
Tóm lại, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Việc Ngôi Hai xuống thế là dấu chỉ lòng yêu thương của Chúa đối với chúng ta không bờ bến. Chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu. Chúng ta phải yêu Chúa và yêu tha nhân thì mới đáp trả được tình yêu của Chúa đối với ta, với một tình yêu quảng đại, tha thiết và hy sinh. Câu truyện cảm động dưới đây giúp chúng ta suy niệm về tình yêu của Chúa đối với chúng ta và tình yêu của chúng ta đối với Chúa.

Truyện : Hòang tử và cô gái.

Hòang tử của một vương quốc rất giầu có, lại đem lòng yêu thương một cô gái xinh đẹp là con một người làm bánh mì. Tuy bị hòang gia phản đối nhưng hòang tử nhất mực cưới nàng làm vợ. Lễ thành hôn được tổ chức kín đáo và đơn giản trong đền vua, không có khách quí nào tham dự, không có đại diện các nước lân bang.
Nhiều năm trôi qua, hòang tử và cô gái xinh đẹp sống những ngày rất êm đềm hạnh phúc. Đến ngày vua cha băng hà, hòang tử được lên ngôi vua thay cha cai trị dân nước. Bấy giờ các quan triều đình mới cho hòang tử hay biết, vì hạnh phúc của dân nước, ngài phải chọn một trong hai điều : hoặc là khước từ ngai vàng, hoặc phải rẫy bỏ người vợ đẹp để chính thức thành hôn với công chúa của nước láng giềng.
Hòang tử phân vân giữa hạnh phúc cá nhân và an ninh trật tự của dân tộc. Trong khi đó, các quan cận thần thuyết phục hòang tử rằng cô vợ đẹp ấy cũng chỉ là cô con gái nhà nghèo.
Cuối cùng, hòang tử xiêu lòng và phải ngậm ngùi tâm sự với vợ : “Vì an bình và hạnh phúc của cả dân nước, anh đành phải từ bỏ em, em hãy trở về gia đình và có thể đem theo cái gì quí nhất đối với em”.
Tối hôm ấy, hòang tử và người đẹp dùng bữa cơm cuối cùng tại hòang cung. Bữa cơm chia ly sao mà buồn thế ? Hòang tử ăn trong nước mắt, lòng buồn rười rượi không nói lên lời. Tuy nhiên, người vợ vẫn thản nhiên chuốc rượu cho chồng, cạn ly này rồi lại đầy ly khác, trong khi hòang tử lại cố uống cho quên sầu.
Sau bữa ăn thì hòang tử đã quá say không còn biết gì nữa. Lúc ấy, nàng lấy chăn trùm kín hòang tử rồi vác lên vai, kín đáo đi lối sau ra khỏi hòang cung về nhà cha mẹ.
Sáng hôm sau, khi đã tỉnh rượu, hòang tử mở mắt ra thấy mình trong căn nhà nghèo nàn của người làm bánh mì. Hòang tử ngạc nhiên hỏi :
– Làm sao thế này ? Anh đang ở đâu ?
Cô vợ mỉm cười đáp :
– Không phải là anh đã nói là em phải trở về nhà cha mẹ và có thể đem cái gì quí nhất đối với em sao ? Thật vậy, điều quí nhất đối với em không phải là gì khác hơn chính là hòang đế của lòng em.


Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
The administrator has disabled public write access.
The following user(s) said Thank You: Đinh Cao Thắng, Hoàng Văn (Lớp Tôma Thiện)

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 3 months ago #61961

.

GiangS.jpg
.
Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh mở đầu một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Mừng lễ Chúa Giáng Sinh là chúng ta kỷ niệm lại biến cố Ngôi Hai đã nhập thể cách đây hơn 2000 năm. Thiên Chúa đã mang lấy thân phận của một người khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo hèn, giữa những con người quê mùa , giữa vùng thôn quê nghèo nàn. Nơi chốn nghèo nàn lạc hậu bị khinh khi bởi bao người giầu sang quyền thế lại là nơi được ưu ái nhất, được trân trọng và từ nơi này đã vực dậy một niềm tin yêu hy vọng cho bao người xấu số. Niềm vui Giáng Sinh sẽ trọn vẹn đến với những ai biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Giêsu như Mẹ Maria, thánh Giuse và các mục đồng.

Giữa tuyết sương lạnh giá, đêm huy hoàng ấy hôm nay lại tái diễn. Đâu có một ngôi thánh đường là ở đó có tiếng hát vọng lên, có ánh đèn sao chập chờn. Chúng ta đừng để vẻ long trọng bên ngoài làm sao nhãng những ý nghĩa cao trọng của mầu nhiệm Giáng Sinh. Chúng ta vui mừng vì Chúa đã xuống để chúng ta được lên. Chúa đã xuống đất để chúng ta biết đường về trời. Chúa đã làm người để chúng ta được trở lên con Chúa. Chúa là ánh sáng phá tan tăm tối thế gian, là ân sủng bình an, vui mừng và hy vọng xóa bỏ tội lỗi, bất hạnh, buồn thảm và thất vọng.

Lạy Chúa Giê su Hài Đồng, xin dậy chúng con noi gương Mẹ Maria nhận biết các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa trọng cuộc đời chùng con. Xin cho chúng con tin nhận Chúa hiện diện đích thực trong bí tích Thánh Thể, như xưa Chúa đã ngự nơi hang đá Bê Lem, để chúng con thêm lòng sùng ái và sốt sắng kết hợp cùng Chúa. Xin ban cho chúng con trong mùa Giáng Sinh này cảm nhận được tình thương và ơn sủng Chúa nhờ đó chúng con luôn cảm tạ và ngợi khen Chúa. Xin cho tâm hồn chúng con luôn sẵn sàng đón nhận Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giu se.

Lạy Mẹ Maria , xin cầu cùng Chúa cho chúng con một tâm hồn đơn sơ như máng cỏ mà Chúa ngự khi mới sinh ra. Xin Mẹ đồng hành với chúng con trong những vui buồn trong cuộc sống hằng ngày nhất là khi gặp gian nan thử thách để chúng con kiên tâm chịu đựng, can đảm vượt qua.

Kính mừng lễ Chúa Giáng Sinh
vì thương nhân loại tội tình khổ đau
Thế gian tội lỗi âu sầu
Chúa thương ban Mẹ cầu bầu đồng công
Bao năm nhân loại chờ mong
Ngôi Hai xuống thế nơi lòng Đức Trinh
Hang lừa máng cỏ nơi sinh
thiên thần thờ lạy bình minh kính thờ
Hài Nhi như một trẻ thơ
mục đồng được báo tôn thờ đến nơi
thiên thần cất tiếng dâng lời
vinh danh Thiên Chúa trên trời vinh quang
bình an dưới thế huy hoàng
cho người trần thế mọi đàng lòng ngay
Mừng vui nhân loại hôm nay
Chúa sinh giáng thế bao ngày đợi trông
đền thay tội lỗi tổ tông
Chúa Con cứu thế đền xong tội đời
Ba nhà đạo sĩ nhìn sao
Bê lem hang đá nơi nào Chúa sinh
Ánh sao hướng dẫn bình minh
đến nơi thấy Chúa uy linh sáng ngời
ba nhà đạo sĩ dâng lời
cùng nhau kính bái đồng thời lễ dâng
nhũ hương, mộc dược và vàng
dâng lên Thiên Chúa cao sang muôn đời
Chúng con xin Chúa nhận lời
tâm hồn ngay chính trọn đời Chúa thương.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61953

.
Chúa Nhật IV Mùa Vọng

.
emmanuel.PNG

A. DẪN NHẬP


Chúng ta đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Giáng sinh là sự kiện trung tâm của lịch sử ơn cứu độ và của lịch sử nhân lọai. Giáng sinh là một mầu nhiệm. Muốn hiểu được phần nào mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta cần phải biết Đức Giêsu Kitô là ai ? Thiết tưởng không có định nghĩa nào hòan hảo hơn là định nghĩa mà tiên tri Isaia đã xác quyết trong bài đọc 1 hôm nay : Ngài là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng lời loan báo của tiên tri Isaia đã được thực hiện nơi Đức Giêsu, mà theo một cách vĩ đại hơn rất nhiều, và có thể chính vị tiên tri này đã không thể tưởng tượng nổi. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần trong lòng trinh nữ Maria và được sinh ra. Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người thật. Với tư cách là con người thì Ngài thuộc dòng tộc vua Đavít vì có thánh Giuse là cha nuôi. Ngài đến để chia sẻ thân phận con người của chúng ta và làm cho chúng ta vốn là người phàm, được thông phần thần tính của Người.

Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã đến ở với loài người qua việc tạo dựng, qua lời Ngài trong Kinh Thánh và trong con người của Đức Giêsu ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy mừng lễ Giáng sinh trong tinh thần yêu thương và phục vụ, biết đem Chúa đến cho mọi người để mọi người biết thương yêu nhau và coi tha nhân như hiện thân của Đức Kitô ở giữa lòng đời.


B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA


+ Bài đọc 1 : Is 7,10-16

Đây là một trong những đọan văn quan trọng nhất nói về niềm hy vọng Đấng Messia của Israel. Truyền thống Do thái không ngớt đọc đi đọc lại đọan văn này và khoác thêm cho nó những sắc thái mới. Sách Tin mừng thứ nhất sẽ đọc thấy trong đọan văn này sự hòan tất nơi việc Đức Maria sinh hạ Đức Giêsu (Mt 1,22-23).

Vua Achaz bị chống đối ngay trong nước, bị đe dọa bởi ngọai bang, vua nghĩ đến việc cầu cứu những người Assyri. Tiên tri Isaia đã ngăn cản ông và khuyến khích ông hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa hơn là vào liên minh quân sự. Nhà tiên tri đã cho ông một dấu hiệu từ trời cao : đó là cuộc sinh hạ của một người con trai, Đấng giải thóat dân, mang tên là Emmanuel : Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Không nghe lời khuyên nhủ khôn ngoan đó, Achaz sẽ bị phạt và vương quốc bị phá hủy. Dầu vậy, Thiên Chúa cũng còn thương mà ban cho vua một người con yêu quí là Ezechias, một ông vua hòan hảo. Ông không phải là Đấng Messia, nhưng chỉ là hình bóng Đấng Cứu Thế và mẹ ông là hình bóng của Đức Trinh nữ Maria.

+ Bài đọc 2 : Rm 1,1-7

Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô tỏ ra được vinh dự vì được kêu gọi vào hàng môn đệ của Đức Kitô, với trách vụ tông đồ rao giảng Tin mừng cho dân ngoại. Trọng tâm Tin mừng ngài rao giảng là Đức Kitô. Theo đó, Đức Kitô là Con Thiên Chúa theo bản tính từ đời đời và đã trở thành con vua Đavít theo xác thể và là người thật.
Từ ý thức đó, thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy sung sướng vì được thuộc về một Đấng cao sang như thế : “Đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”; đồng thời cũng hãy sung sướng với ơn gọi của mình : “Anh em là những người mà Đức Kitô đã kêu gọi”.

+ Bài Tin mừng : Mt 1,18-24

Việc sinh hạ Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa được diễn ra một cách đặc biệt. Ngài có cha có mẹ đàng hoàng : Mẹ Ngài là một trinh nữ có tên là Maria và cha Ngài là bác thợ mộc tên là Giuse.
Cuộc kết hôn giữa thánh Giuse và Đức Maria đã được Thiên Chúa sắp đặt, nhằm những mục đích thích hợp với chương trình cứu độ : Đức Giêsu đã được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài đến trần gian là “để cứu dân mình khỏi tội”.
Thánh Matthêu hiểu rằng việc này làm ứng nghiệm lời tiên tri của Isaia từ trước : “Đức Giêsu chính là Emmanuel”, có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.


C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA


Thiên Chúa ở cùng chúng ta

I. LỜI HỨA BAN ĐẤNG EMMANUEL

Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ thực hiện những điều đã hứa khi thời gian tới hồi viên mãn. Lời hứa đó đã được thực hiện cách đấy 2000 năm. Đức Giêsu Kitô đã đến không phải chỉ một lần trong lịch sử, nhưng Ngài vẫn đang đến, đang hiện diện với chúng ta hôm nay, và nhất là Ngài sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Ngược dòng lịch sử nhân lọai, sau khi Nguyên tổ sa ngã, quay lưng lại với Thiên Chúa đi vào chỗ diệt vong, Thiên Chúa đã hứa ban một Đấng Cứu Thế để nhờ Ngài mà con người chuộc lại được sự sống đã mất (x. St 3,15). Thế rồi qua dòng lịch sử, mặc cho sự phản bội liên tục của con người, Thiên Chúa vẫn trung thành mãi và Tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục đeo đuổi lấy con người (x. 2Tm 2,13). Từng bước một, Thiên Chúa đã chọn Abraham làm tổ phụ một dân riêng, để từ dân đó, Con Ngài được sinh ra. Và trong dân đó, Đấng Messia của Thiên Chúa đã được báo trước sẽ thuộc dòng tộc vua Đavít (x. 2Sm 7,12-16).

Thế nhưng, mặc dù đã nhận được lời hứa, con cháu của vua Đavít vẫn không giữ được lòng trung thành. Khi đó vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước CN, các vua phương bắc đang đem quân tiến đánh thành Giêrusalem. Vua Giuđa lúc bấy giờ là Achaz thay vì hoáncải đời sống và tin tưởng vào Thiên Chúa, ông lại đi cầu viện đế quốc Assyri. Và để làm đẹp lòng vua của Assyri, ông đã dẹp bỏ bàn thờ của Giavê Thiên Chúa, và thay vào đó là tế đàn của các thần dân ngọai. Thậm chí, ông còn theo thói tục của dân ngọai, thiêu sinh cả con ông làm của lễ toàn thiêu.

Trong hoàn cảnh đó, Thiên Chúa đã cho tiên tri Isaia đến để kêu gọi nhà vua quay trở lại với Thiên Chúa, và đặt trọn niềm tin nơi Ngài. Chính Ngài sẽ giải thoát vua “hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi một dấu ở dưới lòng đất hay ở trời cao”.

Nhưng nhà vua vẫn không chịu xin, vì sợ rằng khi nhận được dấu chỉ, điều đó sẽ chứng tỏ sự sai trái của nhà vua. Ông vẫn cố chấp và tiếp tục sống trong tội lỗi của mình. Nhưng cho dù vua không xin, thì đây, Thiên Chúa vẫn cho ông một dấu chỉ để chứng tỏ lòng trung thành của Ngài: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chính Thiên Chúa sẽ đến ở với dân Ngài và giải thóat họ khỏi mọi đe dọa của quân thù.

Dấu chỉ mà tiên tri Isaia loan báo đã được thực hiện. Ezechiel đã được sinh ra, và các vua phương Bắc đã lui quân. Vị vua này mặc dù rất trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa phải là Đấng Messia. Cuối cùng, vào năm 587, Giuđa cũng đã mất vào tay đế quốc Babylon. Như thế, lời tiên báo của tiên tri Isaia không dừng lại ở vua Ezechiel, nhưng còn đi xa hơn, hướng đến Đấng Cứu Thế .

II. THỰC HIỆN LỜI HỨA BAN ĐẤNG EMMANUEL

1. Nguồn gốc của Đức Giêsu

Theo KinhThánh, chúng ta phải xác nhận là Đức Giêsu được sinh ra bởi Đức Maria : “Đức Kitô giáng sinh trong hòan cảnh sau đây : Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse”(Mt 1,18). Đức Giêsu đã có người Mẹ còn cha Ngài là ai ? Ngài thuộc dòng tộc nào ? Mẹ Ngài ra sao ?

Chúng ta phải tìm hiểu phong tục cưới hỏi của người Do thái. Luật Do thái phân biệt rõ ràng trong hôn nhân : việc đính hôn và cưới xin. Tuy cũng có lễ hỏi và lễ cưới nhưng giá trị và ý nghĩa khác với Việt nam chúng ta.
* Lễ đính hôn (cũng gọi là lễ hỏi) : Thời gian đính hôn kéo dài trong một năm. Trong năm đó đôi bạn được kể như vợ chồng dù họ không có những quyền của vợ và chồng. Lễ hỏi Việt nam chưa làm vợ chồng, còn lễ hỏi Do thái coi như thành vợ chồng. Chứng cớ là theo luật :
. Vị hôn thê bất trung sẽ bị ném đá như vợ chính thức.
. Vị hôn phu có chết thì vị hôn thê trở thành quả phụ.
. Vị hôn thê cũng giống như người vợ chính thức chỉ có thể bỏ nhau bằng tờ ly dị.
. Đứa con cưu mang trong thời gian đính hôn được coi là con chính thức.
Như thế luật cho hai người quyền ăn ở với nhau trong thời gian này.
Giuse và Maria đang ở trong giai đọan này.

* Lễ thành hôn : Hôn nhân chính thức được cử hành vào cuối năm hứa hôn. Nếu chúng ta hiểu biết phong tục cưới gả thông thường của người Do thái thì mối quan hệ trong khúc sách này hoàn toàn là bình thường và rõ ràng.

2. Giuse là người công chính

Kinh Thánh gọi Giuse là người công chính: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”(Mt 1,19). Chữ “công chính” đã được hiểu khác nhau và vì hiểu khác nhau nên cũng cắt nghĩa khác nhau về thái độ của thánh Giuse.

Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với luật lệ. Do đó, khi người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động theo hai cách : Hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngọai tình, và như thế Maria bị mất thể diện hoàn toàn; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse đã chọn giải pháp nào ?

Thật khó nghĩ ! Một đàng ngài không muốn công khai bộc lộ ý tưởng của mình là Maria đã phạm tội, vì ngài không muốn gây tổn thương cho Maria, một thiếu nữ ngài rất yêu mến và không muốn cho cô phải đau khổ. Nhưng đàng khác, giả sử Maria đã phạm tội thật mà nhận cô làm vợ thì không được. Bởi đó buộc phải thực hành luật Maisen chăng ? Cho phép bỏ vợ khi có lý do chính đáng quan trọng.

Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng cho ông : “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng. Việc này thường xẩy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.

Sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa, ông tỉnh giấc và tuân hành lời thiên thần truyền. Giuse mau mắn thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa liên quan đến Con Thiên Chúa xuống thế làm người, qua việc ngài làm bạn với Đức Maria và cha nuôi Chúa Giêsu, không ăn ở với nhau cho đến khi sinh con.

3. Giuse, cha nuôi Đức Giêsu

* Đưa nhập vào dòng dõi Đavít
“Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền”(Mt1,25). Với sự mau mắn của người công chính, hòan tòan sẵn sàng trước sự mới lạ của Thiên Chúa, Giuse đón nhận về nhà mình mầu nhiệm của Giao ước mới : “Ông rước vợ về nhà mình”, như thế, cho phép các lời tiên tri được thực hiện trọn vẹn : “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai sinh hạ một con trai, người sẽ đặt tên là Emmanuel, có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Nhờ Giuse, Đấng Cứu Thế, thụ thai trong lòng Đức Maria, bởi Thánh Thần của sự sáng tạo mới, được đưa nhập vào dòng dõi vua Đavít.

Từ đây với người cha là thánh Giuse, Đức Giêsu thực sự thuộc hoàng tộc Đavít, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ muôn thuở. Đây đúng là một tin vui, một tin mừng vĩ đại không chỉ cho dân Chúa mà là cho toàn thể nhân lọai.

Cảm nghiệm điều đó, ngay trong những lời mở đầu thư gửi cho tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã tuyên bố : “Tôi đã được kêu gọi làm tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng Tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Đavít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần… Đó là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

* Việc đặt tên
Khi sai sứ thần đến trấn an và báo tin vui cho thánh Giuse, Thiên Chúa còn muốn cho chúng ta biết sứ mạng của Đức Giêsu. Thực vậy, lời sứ thần giải thích tên gọi của Đức Giêsu chính là lời công bố sứ mạng của Ngài. Trong Sách Thánh, những tên gọi đều có ý nghĩa riêng như chúng ta thường nói : tên là người. Vậy tên Giêsu, do từ Do thái Yehoshua có nghĩa là “Chúa Cứu Độ”, “Chính Ngài sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Giuse được ủy nhiệm một sứ mạng “đặt tên cho con trẻ” dành riêng cho ngài. Mà, theo H. Vulliez giải thích : “Theo luật Do thái lúc bấy giờ, đứa bé hiện hữu hợp pháp bằng tên mà người ta gọi nó, và nó thuộc dòng dõi người cha, dù đó là người cha (sinh vật học) ruột thịt hay không”.

Theo ngôn ngữ Sêmít trong Thánh Kinh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” của đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavít, để hòan tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”(x. Mt 1,1-17). Như vậy, tư cách con vua Đavít thực sự của hài nhi và sự thực hiện trọn vẹn các lời tiên tri cứu thế tùy thuộc ở sự vâng lời của thánh Giuse.

* Vai trò của thánh Giuse đối với Đức Giêsu
Vai trò của thánh Giuse không phải là tầm thường. Khoa tâm lý hiện đại đã tỏ cho chúng ta biết tầm quan trọng của hình ảnh người cha đối với việc tạo thành nhân cách của hài nhi. Chính nhờ gần gũi với Giuse mà Đức Giêsu sẽ học biết người cha là gì. Chính nơi ông, mà Ngài sẽ nhìn thấy phản ánh nhân loại tình phụ tử của Thiên Chúa. Biết nói với chúng ta rõ ràng về Cha của Ngài, phải chăng khi đã nhìn thấy Giuse mà Ngài đã có kinh nghiệm về sự âu yếm của người cha : “Ai trong các anh, nếu đứa con xin bánh mà lại cho một hòn đá ư ? Hay, nếu nó xin một con cá, mà lại cho nó một con rắn” (Mt 7,9-10)? Ngài đã học biết rằng, các người cha dưới đất biết cho con cái mình những sự tốt lành. Ngài đã học biết điều đó nơi thánh Giuse.
Tính cách làm cha của Giuse đối với Đức Giêsu quan trọng hơn ta vẫn thường nghĩ. Để gọi tên Đấng mà tất cả mọi người xưng là Thiên Chúa, để chỉ sự hiện diện rất gần gũi mà từ đó Ngài lãnh nhận tất cả mọi sự, hữu thể mà Ngài luôn luôn ý thức chỉ là một với Ngài. Đức Giêsu tự động dùng lại danh xưng mà Ngài âu yếm gọi Giuse : “Cha, Ba, Bố”. Và khi phải giải thích sự thật gây kinh ngạc này với Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa mà Ngài đòi tiếp tục công trình sáng tạo, Đức Giêsu lại dùng những từ ngữ đơn giản nhất khi còn tập tành ở Nazareth, trong xưởng của bác thợ mộc Giuse : “Cho đến bây giờ vẫn làm việc, và Ta cũng vậy, Ta cũng làm việc… Điều mà Cha làm, thì Con cũng làm giống như vậy. Chính Cha yêu mến Con, và chỉ cho Con tất cả những gì Ngài làm”(Ga 5,17-20).

Chính nơi những từ ngữ thường ngày, những từ ngữ mà Ngài dùng để diễn tả cuộc đời Ngài, những mối liên hệ của Ngài, những tình cảm của Ngài, mà Đức Giêsu muốn nói đối với Ngài, Thiên Chúa là ai. Làm sao không tìm thấy trong tình cảm của cha mẹ Ngài những từ ngữ đúng đắn nhất để nói cho chúng ta biết mối liên hệ tuyệt đối duy nhất vốn vẫn hiện diện trong con tim Ngài: “Cha và Ta, Chúng Ta là một”(Ga 10,30) (Trích Fiches dominicales A, tr 28-29).

III. ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ EMMANUEL

1. Đức Giêsu sinh ra bởi Đức Mẹ đồng trinh

Chủ ý của bài Tin mừng hôm nay không nhằm vào sự công chính của Giuse cho bằng sự thụ thai kỳ diệu của Đức Giêsu trong cung lòng đồng trinh của Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần. Thông thường, nói tới sự đồng trinh của Đức Maria, người ta nghĩ tới sự đồng trinh thể chất, ít ai để ý đến sự đồng trinh về mặt tinh thần của Ngài. Cả hai mặt của sự đồng trinh ấy đều quan trọng và cần thiết. Nhưng nếu chỉ đồng trinh về mặt thể chất mà không có mặt tinh thần thì đồng trinh ấy chẳng còn ý nghĩa. Sự đồng trinh về tinh thần nơi Đức Maria quan trọng hơn rất nhiều.

Trước mặt Thiên Chúa, đồng trinh về mặt tinh thần có nghĩa là có tâm hồn trọn vẹn hướng về Ngài, hoàn toàn dâng hiến bản thân cho Ngài để hoàn toàn thuộc về Ngài, không còn thuộc về chính mình nữa. Trong chiều hướng đó, Đức Maria đã sống tinh thần “tự hủy”, để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Biểu hiện quan trọng và rõ rệt nhất là không còn coi ý riêng mình là quan trọng, thậm chí không còn ý riêng nữa, để chỉ biết có thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, Đức Maria cũng có thể nói như Đức Giêsu : “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”(Ga 5,30), hay như thánh Phaolô : ”Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20). Trọn cuộc đời của Ngài đã chứng tỏ sự đồng trinh tinh thần ấy, được biểu hiện qua mọi hành vi của Ngài, cụ thể nhất qua hai chữ “Xin vâng” khi sứ thần truyền tin cho Ngài (JKN).

2. Đức Giêsu là Chúa và là người thật

Trong bài tụng ca, thánh Phaolô đã viết : “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7). Ngài là Thiên Chúa mặc lấy xác phàm hèn, trở nên con người như chúng ta. Ngài cũng sống trong gia đình, có cha có mẹ, có anh em, trong xã hội có vua quan, có phép tắc, luật lệ, y trang như mọi người chúng ta. Ngài đã hoàn toàn “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,7), cũng “sinh làm con của một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật”(Gl 4,4) như chúng ta, cũng “phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”(Dt 5,8-9). Vì thế, Ngài “không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”(Dt 4,15-16). Chắc chắn Ngài có thể nói như một triết gia nào đó : “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.

Những điều của con người mà Ngài cảm nghiệm được nhiều nhất chính là đau khổ và sự chết. Dường như mọi hình thức của đau khổ Ngài đều đã cảm nghiệm : phản bội, oan ức, bị đàn áp, bóc lột, mất mát, roi vọt, nhục nhã.., Điều này làm cho chúng ta rất đuợc an ủi khi gặp đau khổ. Chúng ta nhận ra Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của chúng ta. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của chúng ta (x. 1Pr 2,2b). Nghĩ như thế, chúng ta không cảm thấy cô đơn trong đau khổ, vì chúng ta cảm thấy như Ngài đang đau khổ với chúng ta, để biến những đau khổ của chúng ta thành một giá trị cao cả.

Truyện : Đức Giêsu là người thật.

Tiến sĩ John Coleman là Hiệu trưởng trường Đại học Haverford ở bang Pensylvania. Ông cũng là thành viên của Ban Giám đốc ngân hàng liên bang. Mới đây, ông đã dần dần từ bỏ những địa vị đặc biệt này. Vì muốn có kinh nghiệm về sự làm việc tay chân, ông đã cố gắng đào những đường mương, làm việc trên cánh đồng, thu quét rác rưởi, rửa chén đĩa. Ông đã học những gì phải làm với mồ hôi trán hơn là trí óc. Ông đã làm những công việc khó khăn và mệt nhọc, nhưng vì không có khả năng chuyên môn, lại làm việc giữa những người xa lạ, nên ông bị thải hồi làm người rửa chén đĩa. Ông đã bị thất nghiệp một thời gian, nhưng nhờ những kinh nghiệm hiện thực đó, ông đã khám phá ra những gì mà nhiều người đang trải qua.

Có một Vị vô cùng nổi tiếng và có ảnh hưởng hơn tiến sĩ Coleman. Tên Ngài là Giêsu Kitô, Ngài là Thiên Chúa thượng trí và tòan năng, nhưng đã chấp nhận thân phận làm người, sinh ra dưới hình hài con trẻ cách đây đã 2000 năm, mà chỉ ít ngày nữa, chúng ta sẽ hân hoan cử hành Sinh nhật của Đấng Thiên Chúa làm người đó. Để chuẩn bị biến cố vui mừng này, chúng ta cần suy nghĩ về Đấng là Thiên Chúa thật đã trở nên con người thật (GM Arthur Tonne, Bài giảng TMCN năm A, tr 14).

3. Muốn được Thiên Chúa ở cùng

Qua cách khởi đầu và kết thúc Tin mừng mình với chủ đề : “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thánh Matthêu, muốn nêu bật một chủ điểm quan trọng đó là : qua việc Đức Giêsu Giáng sinh, Thiên Chúa trở nên hiện diện với dân Người một cách mới mẻ đặc biệt. Để đánh giá được tính cách hiện diện mới mẻ này, chúng ta cần nhắc lại ba cách Chúa dùng để hiện diện với chúng ta.

a) Trước hết, Chúa hiện diện với chúng ta qua việc sáng tạo, đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài. Chúa không chỉ tạo dựng mọi sự mà còn gìn giữ cho nó được hiện hữu nữa. Sự hiện diện của Ngài trong việc tạo dựng có thể ví như một máy chiếu xinê phóng ảnh lên trên màn hình. Máy chiếu này làm hình ảnh hiện ra trên bức màn, và hình ảnh sẽ tồn tại bao lâu máy chiếu vẫn còn lưu giữ hình ảnh đó. Trong trường hợp của Chúa cũng vậy, Ngài làm cho tạo vật được hiện hữu và tạo vật sẽ tồn tại bao lâu Chúa còn bảo tồn nó.

b) Thứ đến, Chúa hiện diện qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Có người mô tả Kinh Thánh như là thư tình ông bố gửi đến các con mình. Giống như một người bố trần gian biểu lộ ý nghĩ, tư tưởng mình cho con cái trong một lá thư thế nào thì Chúa cũng mạc khải tư tưởng Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy. Vì thế, nói thật chính xác, Kinh Thánh làm cho tâm trí Thiên Chúa trở thành hiện diện cụ thể rõ ràng, sống động đối với chúng ta.

c) Cuối cùng, Chúa hiện diện với chúng ta qua Đức Giêsu, Con Ngài. Cùng với việc chào đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để tiến đến cư ngụ giữa chúng ta. Như thế, Chúa đã hiện diện với chúng ta không chỉ qua việc tạo dựng, qua lời Ngài mà còn bằng đích thân Ngài nữa (M.Link, Giảng lễ Chúa nhật A, tr 29-30).

Chúng ta đang ở vào những ngày chót của Mùa Vọng để đón chờ lễ Giáng Sinh. Chúng ta hãy bắt chuớc thánh Giuse mà cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Thánh Giuse đã đón nhận mầu nhiệm này với lòng tin. Thiên Chúa cần đến Ngài để Ngài đứng ra chấp nhận làm cha Chúa Giêsu trước pháp luật. Ngài đã thuận theo thánh ý Chúa để mọi công cuộc của Chúa được diễn tiến theo đúng chương trình Ngài đã ấn định.

Chúng ta cũng phải cộng tác với Chúa để mọi công việc của Chúa được diễn tiến trong trần gian và trong từng người chúng ta theo đúng kế họach của Ngài. Chúng ta hãy làm cho mọi người cảm nhận được rằng Đấng Emmanuel đang hiện diện giữa loài người. Ngài hiện diện nơi từng người, trong những người hèn mọn nhất trong chúng ta, để rồi chúng ta phải xác nhận rằng “Tha nhân chính là Chúa”.

Truyện : Chúa đến nơi tha nhân.
Một tác giả kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây : Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức dậy rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị chiếc xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quí. Và người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư.

Sáng hôm đó là một ngày cuối đông, cái lạnh đã khiến mặt mũi , tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.

Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại, hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn báo cho người khách quí biết mình phải đi ra ngòai.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé, và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.

Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh, nhưng đó không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về đến nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe thấy tiếng Chúa nói với anh : “Cảm ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay”.


Lm Giuse Đinh lập Liễm
Last Edit: 7 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.
The following user(s) said Thank You: Đinh Cao Thắng, Hùng 33, Hoàng Văn (Lớp Tôma Thiện)

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61949

Chúa nhật III Mùa Vọng được gọi là Chúa nhật mầu hồng
nhắc nhở chúng ta hướng về ngày Chúa Quang lâm: “Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa Quang lâm đã gần tới”(Gc 5,8.). Chúa đã đến và Ngài sẽ lại đến. Việc Ngài đến làm cho chúng ta phải ngóng đợi. Chúng ta không biết khi nào Ngài đến, nên chúng ta phải kiên tâm chờ đợi. Giáo hội là Mẹ chúng ta, muốn dùng Phụng vụ Chúa nhật III Mùa Vọng để giúp chúng ta nghe lại sứ điệp hy vọng.

Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Con người phải gặp biết bao gian lao thử thách trên đường đời, những đau khổ hằng ngày có thể làm cho chúng ta nản lòng bỏ cuộc. Vì thế, thánh Giacôbê, trong bài đọc 2, đã khuyên các tín hữu hãy kiên tâm bền chí chờ ngày Chúa Quang lâm giải thóat. Hãy học đòi những người nhà nông chờ đợi cho đất trổ sinh hoa mầu, nghĩa là phải kiên tâm chịu đựng mọi gian khổ, đừng nóng lòng vội vã mà nản lòng vì “dục tốc bất đạt” mà!

Vậy chúng ta hãy hướng tâm hồn tới niềm vui, và niềm vui này sẽ biến đổi những thực tại trần gian. Cuộc đời còn lắm chông gai nhưng chúng không biến thành trở ngại khiến chúng ta chùn bước khi đã có một niềm tin vững mạnh và niềm vui tràn đầy. Chúng ta hãy tiến bước trong hân hoan với tư cách là con cái Chúa, Đấng là nguồn vui và hy vọng của chúng ta. Tuy vậy, niềm vui đó hiện nay vẫn còn là niềm vui chờ đợi.

*. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Is 35,1-10

Dân Do thái sống trong đau khổ, bị áp bức đủ bề. Dân mong đợi được giải thóat, nhưng hy vọng bị coi như ảo tưởng vì tương lai mù mịt, không có một chút ánh sáng nào cuối đường hầm. Dân chúng chán nản thất vọng. Lúc đó, tiên tri Isaia xuất hiện, khuyên dân chúng hãy vui lên , hãy can đảm lên vì “Thiên Chúa anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”.

Tiên tri cho biết: “Những người được Đức Chúa giải thóat sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. Lời loan báo này giúp cho dân chúng lấy lại được hy vọng, hãy kiên nhẫn chờ đợi và hãy vui lên.

+ Bài đọc 2 : Gc 5,7-10

Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nói lên những điều hứng khởi và thi vị, còn trong bài 2, thánh Giacôbê xem ra nói những lời bình dân hơn. Ngài khuyên tín hữu hãy noi gương các người nhà nông cứ giao việc lo toan mùa lúa chín vàng cho thời gian, để khuyên chúng ta sống kiên nhẫn chờ đợi.

Thánh nhân nói với những người dân thường, với những người đang bị cuộc đời thử thách, Ngài khích lệ họ kiên nhẫn chịu đựng những âu lo và khó nhọc hiện tại. Kiên nhẫn theo Tin mừng không phải là nhẫn nhục cằn cỗi, nhưng nó là hy vọng tích cực và sinh động, luôn tìm cách làm cho ngày của Chúa chóng đến. Trong khi chờ đợi Chúa đến, anh em cố sống thuận hòa với nhau.

+ Bài Tin mừng : Mt 11,2-11

Bẵng đi một thời gian khá dài, khỏang 800 năm, bỗng một tiên tri siêu đẳng xuất hiện, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mình mặc áo da thú, rao giảng đanh thép, thúc giục mọi người hóan cả tâm hồn. Thiên hạ nô nức tuốn đến nghe Gioan giảng, chịu phép rửa và có nhiều người coi ông là Đấng Cứu Thế.

Gioan đã biết ai là Đấng Cứu Thế rồi, nhưng môn đệ ông cứ tin tưởng ông là Đấng Cứu Thế. Nên ông kín đáo sai họ đến với Đức Giêsu để cho họ mở mắt ra và tin theo Chúa Cứu Thế. Ông sai họ đến và hỏi Đức Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”? Đức Giêsu không trả lời trực tiếp Ngài là ai mà chỉ bảo họ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe, những phép lạ Chúa làm như người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin mừng, đúng như lời tiên tri Isaia đã báo trước về Đấng Cứu Thế.

Ông Gioan đã khôn khéo giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ ông biết Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi và đã chuyển tòan bộ môn đệ mình sang cho Đức Giêsu. Ông sai họ đến với Ngài, giới thiệu Ngài cho họ, trước khi đầu ông bị bỏ vào đĩa.

* THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chờ đợi trong kiên nhẫn và vui tươi.

I. NHỮNG THẮC MẮC VÀ GIẢI ĐÁP

1. Gioan, vị Tiền hô xuất hiện

Gioan là con thượng tế Zacharias thời ấy đứng vào hàng quí phái, là con một được sinh ra trong tuổi già của cha mẹ, nên được cưng chiều hết cỡ. Nhưng khi đến tuổi trưởng thành. Gioan đã tự ý từ giã cha mẹ đi vào sa mạc dọn lòng thi hành sứ mạng Tiền hô. Phần lớn đời sống Ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với khổ hạnh. Ngòai sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe dọa của thú dữ, Gioan còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của Ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của Ngài là châu chấu và mật ong rừng, và bạn hữu của Ngài chỉ là muông chim cầm thú. Thiên hạ tìm đến cùng Ngài, kẻ xin làm môn đệ, người xin làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối (Lc 3,7-8.).

Trên dòng sông Giorđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sông thuận tiện cho các đòan tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là ai vậy ? Ông ta có phải là Đấng Messia được Thiên Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả dọn đường cho Đấng Messia” ?

Đang lúc Gioan được danh giá và hoan nghênh tột bậc thì Đức Giêsu xuất hiện. Và bài Tin mừng hôm nay sẽ soi sáng cho chúng ta để hiểu được những thắc mắc ấy.

2. Gioan thắc mắc

Như chúng ta thấy trong Chúa nhật vừa qua, Gioan Tiền hô không ngừng loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Ngài giáng xuống” như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân, tha thứ tội lỗi, kêu gọi một người thu thuế bước theo Ngài, đồng bàn với những người tội lỗi. Khác xa với vị quan tòa đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trong quảng trường, Ngài không bẻ gẫy cây sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói.

Ở đây Gioan đối đầu với cớ vấp phạm nghĩa là đối đầu với một chướng ngại có nguy cơ làm ông sụp ngã. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông, đang chờ đợi một sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa.

Vì thế, từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy suy tư mà hòan cảnh đã nhận chìm ông vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi con phải chờ đợi Đấng nào khác”.

Tuy nhiên, một số người cho rằng câu hỏi đó không phải cho Gioan mà cho các môn đệ của ông. Có thể Gioan đàm đạo với các môn đệ của ông ở trong tù, họ hỏi ông là Đức Giêsu có thật là Đấng phải đến không? Gioan bảo họ: Nếu các ngươi nghi ngờ Đức Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay. Ý kiến này được xác nhận khi Gioan chỉ vào Đức Giêsu mà nói với các môn đệ của ông: “Chính Ngài là Đấng ta đã nói : Đấng đến sau tôi đã vượt trước tôi, vì Ngài đã có trước tôi (Ga 1,15). Tôi chưa hề biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính Ngài đã nói với tôi : ngươi thấy Thánh Thần đáp xuống và lưu lại trên ai thì chính Ngài là Đấng thanh tẩy trong Thánh Thần. Và tôi đã được xem thấy, và xin đoan chứng: chính Ngài là Đấng Thiên Chúa chọn”(Ga 1,33-34).

Chúa Giêsu giải đáp

Đức Giêsu không trực tiếp trả lời cho phái đòan Gioan về thắc mắc trên nghĩa là Ngài không khẳng định cũng không phủ định Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân trông đợi mà cứ xem việc Ngài làm mà kết luận: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe : người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng”(Mt 11,4-5).

Đến đây, chúng ta nhớ lại lời loan báo của tiên tri Isaia khi ông loan báo về ngày của Thiên Chúa trong bài đọc 1 hôm nay. Trong ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ thì “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ reo lên vui mừng ! bởi vì, nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên”(Is 35,5-6). Và giờ đây, những điều đó đang được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, thì điều đó là một minh chứng tỏ tường : Đức Giêsu chính là Đức Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Ngài chính là vị Thiên Chúa ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.

Và sau cùng là lời cảnh cáo:”Phúc cho kẻ nào không vấp phạm vì Ta”(Mt 11,6). Phải chăng Đức Giêsu nói điều này với Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Tin mừng về sự thánh thiện với sự hủy diệt từ trời, còn Đức Giêsu rao giảng Tin mừng về sự thánh thiện với sự yêu thương từ trời. Vì vậy Đức Giêsu nói với Gioan rằng “có thể Ta không làm điều ngươi trông đợi nơi Ta, nhưng những quyền năng đang bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn”.

“Phúc cho kẻ nào không vấp ngã vì Ta” hay “Phúc cho những kẻ nào không đánh mất niềm tin vào Ta”, qua câu này Đức Giêsu có ý khuyên những người nghe Ngài giảng đừng bất bình với lối cư xử của Ngài. Ở đây Ngài có ý nhắc đến sự chậm tin của các môn đệ Gioan và của mọi người khác. Ngài thật là Đấng Thiên Sai, vậy đừng vì những vẻ bề ngòai: con bác thợ mộc, sống nghèo khó, đón tiếp kẻ tội lỗi, chết đau thương trên thập giá… mà vấp phạm, không tin vào vai trò cứu thế của Ngài.

II. CHỜ ĐỢI TRONG KIÊN NHẪN

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều có những lời đầy an ủi. Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nói “Hãy can đảm lên, đừng sợ”. Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê nói “Hãy kiên nhẫn, đừng nản lòng”. Trong bài Tin mừng Đức Giêsu nói với Gioan Tẩy giả “Phúc cho những người nào không đánh mất niềm tin vào Ta”.

Dân Do thái bị lưu đầy bên Babylon suốt 70 năm, thời gian trở nên dài lê thê đối với họ vì “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngọai”, dân chúng đã thấy chán nản và tuyệt vọng vì không còn lối thóat, chân trời tương lai còn mịt mờ. Nhưng tiên tri Isaia xuất hiện đem chút ánh sáng đến cho đêm tối. Dân Chúa được ví như hoang địa cằn cỗi, sẽ bừng lên niềm hy vọng tựa hồ dân trước viễn ảnh một cuộc xuất hành mới. Isaia thấy được sự huy hòang ấy và lên tiếng kêu gọi dân Chúa.

Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và huy hòang của Thiên Chúa chúng ta. Chúa đến giữa dân Ngài, dẫn đầu một cuộc xuất hành và những bàn tay rời rã nên mạnh mẽ, đầu gối mỏi mòn được tăng sức, người sợ hãi thêm can đảm. Sự thay đổi lớn lao này có thể hiểu được khi Thiên Chúa ra tay cứu độ.

Việc dân Do thái được giải phóng khỏi ách nô lệ bên Babylon là hình ảnh Chúa sẽ đến giải thóat dân Ngài lần cuối cùng để đem lại niềm hoan lạc tuyệt đối cho con người. Nhưng thời đó chưa đến và cũng không biết bao giờ mới đến. Trong khi chờ đợi, chúng ta phải trải qua biết bao đau khổ, thử thách gian nan khốn khổ. Phật giáo gọi “đời là bể khổ”, theo kinh Lạy Nữ Vương thì chúng ta gọi “đời là thung lũng nước mắt”. Nhưng thánh Giacôbê khuyên: “Hãy kiên nhẫn, đừng nản lòng”.

Thánh Gioan Tẩy giả là con người thánh thiện, kính sợ Thiên Chúa, tuy nhiên cuối cùng, ngài cũng bị cầm tù với bản án tử hình. Chúng ta có thể làm hết sức mình, nhưng những sự việc vẫn có thể diễn tiến không tốt. Chúng ta cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi. Chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, và có lẽ nghi ngờ cả sự hiện diện của Ngài nữa. Trong những lúc như vậy, chúng ta hãy lắng nghe những lời của Đức Giêsu: “Phúc cho những ai không đánh mất niềm tin vào Ta”.

Cái chết tạo ra một thử thách nghiêm khắc nhất đối với lòng tin của chúng ta. Chúng ta sống cuộc sống của mình dưới bóng tối của sự chết. Tất cả chúng ta, đặc biệt là đối với những người mới mất người thân yêu, và những người đang ở trong cảnh tối tăm, và sống trong bóng tối của sự chết, hãy nhớ lại tiên tri Isaia nói với dân Do thái: “Hãy can đảm lên, đừng sợ”.

Trong bài đọc 2, thánh Giacôbê khuyên tín hữu hãy kiên tâm chờ đợi ngày Chúa Quang lâm. Trong khi chờ đợi chúng ta phải kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ. Trước mọi vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng người khác nhau:

– Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng không quan trọng.

– Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.

Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.

Truyện : Thần Shiva của Ấn độ.

Chuyện thần thọai Ấn độ kể rằng: Shiva là vị thần tạo dựng muôn lòai. Ngài sung sướng trong công việc tạo dựng với đôi bàn tay của Ngài, nhưng dẫu là thần Ngài không tránh khỏi sự nhàm chán. Shiva chán ngán những gì Ngài tạo dựng. Phải làm gì? Dễ dàng, Shiva phá hủy những gì đã tạo dựng và làm nên cái mới. Cái mới cũng lại dần trở nên quen thuộc và Ngài lại phá hủy rồi bắt đầu lại. Tiến trình tạo dựng, tiêu hủy, tạo dựng, tiêu hủy vẫn tiếp diễn liên tục. Shiva là vị thần không kiên nhẫn.

So sánh thần Shiva với Thiên Chúa, chúng ta thấy có sự tương phản rõ rệt. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Dù con người sa ngã phạm tội, Ngài không bất nhẫn hủy diệt. Ngài không chỉ tạo dựng nhưng còn hứa cứu chuộc. Thánh Phêrô đã nói trong thư của ngài: “Chúa không chậm trễ thực hiện Lời hứa, như có kẻ cho là Ngài chậm trễ. Kỳ thực, Ngài kiên nhẫn đối với anh em, vì Ngài không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi đến chỗ ăn năn hối cải”(2Pr 3,8b-9).

Chúng ta sống trong một xã hội đòi hỏi giải pháp nhanh chóng ngay lập tức cho mọi vấn đề. Nhanh hơn thì tốt hơn, người ta bảo chúng ta vậy. Và điều đòi hỏi nhanh chóng ngay lập tức còn đi sâu vào cả lãnh vực tâm linh nữa. Chúng ta muốn Đức Giêsu đến và đến nhanh. Chúng ta muốn được ơn cứu độ ngay mà không muốn đón nhận đau khổ do sự từ bỏ mình hay phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa không hòa hợp với chương trình thời gian tính của chúng ta, chúng ta cảm thấy mình bị lường gạt hay tệ hơn nữa, Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi .

III. CHỜ ĐỢI TRONG VUI TƯƠI

1. Niềm vui thời Thiên Sai

Ngay những lời đầu tiên trong sách Isaia có đầy những từ ngữ: hoan lạc, hân hoan, trổ hoa, nhiệt liệt, reo hò. Diễn tả hết ý của tiên tri thật là khó. Niềm vui trong lòng ông rất to lớn, nhưng đó chỉ là niềm vui trong tương lai mà khi trình bầy, tác giả chưa được nếm. Ông nói về niềm vui sau lưu đầy khi dân Chúa hồi hương. Đất nước tuy tan hoang nhưng hứa hẹn sẽ nở hoa. Isaia muốn diễn tả niềm vui đó, niềm vui được nhìn thấy quê hương sau những năm bị đô hộ, nô lệ và lưu đầy.

Giáo hội mượn lại lời ông để nói lên niềm vui khi Chúa đến. Và thật ra những lời tiên tri kia cũng chỉ thực hiện đầy đủ khi Chúa đến và cứu chuộc chúng ta. Thế nên, đó là niềm vui của thời Thiên Sai, của ngày Chúa trở lại. Tất cả mọi khổ sở, đau phiền, bệnh tật, chết chóc bấy giờ mới chấm dứt; và người ta mới có thể nói như Isaia : vĩnh biệt phiền sầu than vãn.

Nhưng mọi sự xẩy ra trong ngày Chúa đến đều đã khởi sự từ ngày Chúa Giáng sinh. Những điều đó Chúa đã làm từ ngày Ngài xuất hiện. Đó là dấu chỉ thời Thiên Sai đã tới. Phải vui mừng ! Nhưng chưa phải là ngày Chúa đến lần sau hết. Niềm vui hiện nay còn là niềm vui đợi chờ.

2. Niềm vui của ngày hôm nay

a) Cuộc đời vui hay buồn ?

Tùy theo quan niệm của từng người, tùy theo tâm trạng của từng người mà cuộc đời trở nên vui hay buồn. Đời chỉ là một nhưng được nhìn dưới những khía cạnh khác nhau, có khi trái ngược nhau.

. Phải nhận định rằng, đời có rất nhiều lúc buồn với sinh, lão, bệnh, tử, không mấy khi được vừa ý.

. Nhưng cũng phải công nhận rằng : đời cũng có nhiều lúc vui. Phải chăng cái cười của chúng ta chẳng là biểu hiệu của niềm vui ?

. Cho nên phải kết luận rằng : vui buồn ở tại lòng ta. Ta vui thì đời là vui mà ta buồn là đời buồn. Chính mình phóng chiếu tâm hồn mình trên cảnh vật, tâm hồn mình vui hay buồn thì cũng theo đó cảnh vật trở nên vui hay buồn. Thi sĩ Nguyễn Du đã mô tả tình trạng tâm lý ấy rất đúng :

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Truyện: Dễ tính và khó tính.

Buổi sáng tại trạm xăng ở San Francisco, một người ngồi xe hơi đến :

– Xin cho hỏi thăm ông chủ một chuyện. Hai tuần lễ vừa qua, tôi nghỉ mát ở Santa Cruz. Thật hứng thú. Phong cảnh ở đó đẹp. Dân ở đó dễ thương. Còn về Redwood-Highway, ông chủ có ý kiến gì không ?

Ông chủ cây xăng hớn hở trả lời :

– Ở Redwood-Highway dân cũng dễ mến lắm.

Chưa đầy một tiếng đồng hồ, một người khác cũng muốn biết nơi nghỉ mát này, chàng ta nhăn nhó :

– Vừa rồi, tôi đã uổng mất hai tuần lễ nghỉ mát. Chỉ thấy bực mình. Phòng ngủ thì thiếu tiện nghi. Dân ở đó dễ ghét. Còn về chỗ nghỉ mát ở Redwood-Highway, ông chủ nghĩ thế nào?

Ông chủ rầu rầu đáp :

– Miền Redwood-Highway cũng chẳng hơn gì.

Khách đi rồi, người ta mới hỏi ông:

– Tại sao thay đổi ý kiến chóng vậy ?

Ông nói :

– Đâu có. Tôi chỉ nhận xét rằng hai ông khách kia mỗi người theo đuổi một cảm nghĩ, không ai muốn thay đổi. Ông thứ nhất yêu người đã gặp, và thích phong cảnh đã được xem. Vậy chắc là đi tới nơi nào ông cũng thích, cũng yêu nơi đó. Còn người thứ nhì thì khó tính, hay càu nhàu. Vậy tôi nghĩ rằng đi tới đâu ông ta cũng bất mãn với nơi đó (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 210-212).

b) Đời phải là vui tươi

* Chúa là nguồn vui tươi.

Thiên Chúa là sự thánh thiện, sáng láng, đẹp đẽ vô cùng, nơi Ngài không có gì đen tối, buồn thảm. Nơi Ngài chỉ thấy có sự vui tươi và yên ủi. Chúa như thế chẳng lẽ dựng nên toàn tiếng khóc, toàn đau khổ mà không dựng nên được những tiếng cười, những niềm vui tươi phấn khởi sao ? Chẳng thế mà thánh vịnh 42 đã quả quyết: “Introibo ad altare Dei, ad Deum qui laetificat juventutem meam”. Chúa là nguồn sự hoan lạc, những ai đến cùng suối hoan lạc ấy cũng sẽ được vui tươi.

* Mọi sự đều vui tươi.

Nhìn vào cảnh vật, có người cho là vui, có người cho là buồn. Nhưng thực sự, mọi cảnh vật đều là vui tươi phấn khởi vì nó là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, Đấng là chính nguồn vui của muôn vật, và Ngài thông ban nguồn vui ấy ra nơi vạn vật. Ai chỉ coi khía cạnh tiêu cực của vạn vật, công trình sáng tạo của Chúa thì kẻ ấy chỉ làm nhục cho Chúa, là kẻ vô ơn thôi.

* Thế nào là vui ?

Vui không phải là cái gì vật chất, không có hình dáng, không có trọng lượng hay mầu sắc vì niềm vui chỉ là trạng thái trong tâm hồn. Chúng ta chưa tìm được một câu định nghĩa đầy đủ khả dĩ thoả mãn được sự hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên, ai trong chúng ta cũng đã có lần cảm thấy vui mà không tả ra được. Chúng ta chỉ cảm thấy niềm vui đang man mác trong lòng. Chỉ có thể cảm nghiệm được niềm vui chứ không thể định nghĩa hay mô tả đầy đủ được. Chúng ta sẽ cảm thấy có niềm vui khi lương tâm chúng ta không hối hận về một việc gì mình đã làm, song còn được vui sướng hoặc hãnh diện về công việc đó.

* Vui khi có tâm hồn trong sạch

Những người tội lỗi không bao giờ được vui vẻ như :

. Cain sau khi giết em đâu tìm được giây phút bình yên vui vẻ vì con mắt lương tâm tức con mắt Chúa luôn theo dõi ông khắp nơi, khiến tinh thần ông bị rối loạn.

. Philatô sau khi đã tuyên án bất công cho Chúa, cũng cảm thấy lương tâm cắt rứt và muốn đi tự tử cho xong đời.


3. Niềm vui trong hy sinh và chấp nhận

Bao lâu người ta chưa biết hy sinh, chưa biết chấp nhận cuộc sống hiện tại, bấy lâu chưa có niềm vui trong lòng. Trái lại, chính sự hy sinh xả kỷ đã đem lại cho con người một niềm vui tươi man mác mà không một ai, hay của cải vật chất có thể đem lại được. Ông Phạm đình Tân đã nhận thấy như vậy và ông đã diễn tả tư tưởng ấy trong cuốn Thời bút như sau :

Xuân chỉ đến với những tâm hồn chu toàn bổn phận, với những tâm hồn biết chia vui sẻ buồn với tất cả mọi người.

Ai biết được cái vui xuân của người lính gác trong đêm giao thừa ở nơi biên giới vắng vẻ ? Chỉ họ mới biết. Vì họ biết họ thức cho bao nhiêu người ngủ, họ canh gác cho bao nhiêu đồng bào bình yên, họ lẻ loi để bao nhiêu người xum họp.

Ai biết được cái vui xuân của một bà Phước trong ngày mồng một Tết vẫn cắm cúi lau chùi những vết thương đau của người khốn khổ ? Ít ai biết được. Chỉ có bà ta biết được lòng mình, vì bà biết sự hy sinh của bà đã yên ủi đôi ba tâm hồn chơ vơ trong cảnh vui chung.

Ai biết được cái vui xuân của một tu sĩ một mình lặng lẽ cầu nguyện trong bóng tối của tu viện. Ít người biết được. Chỉ có người đó biết lòng mình thôi, vì họ biết họ cầu nguyện cho người giầu sang thiếu sự an ủi, cho người cao qúi thiếu sự bình an, cho người nghèo khó no đầy ơn phúc (Phạm đình Tân, Thời bút 1967, tr 157).

Ta mỉm cười trong đau khổ không phải luôn là hình phạt, nhưng có khi là nguyên do của một vui mừng. Chúa Giêsu đã phán: “Hạt giống gieo xuống đất phải mục nát ra, mới sinh ra trăm ngàn hạt khác’. Người mẹ lúc sinh con phải buồn phiền, nhưng sẽ khoan khoái khi biết mình đã thêm cho đời một mụn con.

Ta sẽ mỉm cười trong khi làm ăn thất bại hay phải thất nghiệp, vì có khi ta thất bại vì ta chán nản. Ta sẽ tìm giải quyết mọi sự trong vui tươi như thi sĩ Alfred de Musset đã để lại cho chúng ta mấy vần thơ sau đây :

Tôi đi qua cánh đồng vắng,

Một con chim hát trên tổ

Dưới chân nó, bầy chim con chết lăn lóc,

Thế mà chim mẹ vẫn hát trước cảnh bình minh.

Hỡi hồn ta, mày đừng khóc nữa,

Vì cho đi mày mất hết mọi sự

Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời thanh thẳm

Vẫn là nguồn hy vọng ở trần gian cho mày.


(Alfred de Musset)

Trong khi chờ đợi Chúa Quang lâm, chúng ta vẫn còn phải ở trong thế gian này, phải vật lộn với bao sóng gió cuộc đời, chúng ta hãy an tâm, đừng sợ, kiên nhẫn chờ đợi trong vui tươi, Chúa sẽ đến giải thóat chúng ta và lúc đó niềm hoan lạc chúng ta sẽ được tràn đầy.

Hãy tin tưởng, hãy cầu nguyện vì biết rằng “bên trên thế giới của trăng sao, có một người Cha yêu thương đang âu yếm nhìn ta”(Trích Bài ngợi ca Niềm vui trong Bản giao hưởng số 9 của Beethoven).

Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Last Edit: 7 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.
The following user(s) said Thank You: Đinh Cao Thắng, Hoàng Văn (Lớp Tôma Thiện)

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61945

.
Chúa Nhật II Mùa Vọng - A

(Mt 3, 1-12)
.

Bước vào Chúa nhật II Mùa Vọng với chủ đề : Populus Sion ... (Này hỡi Dân Sion…) Chúa sắp ngự đến cứu độ muôn dân. Người sẽ lên tiếng thật oai hùng, khiến tâm hồn anh em hoan hủy... " (Ca nhập lễ) làm cho tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Khơi dậy trong ta một lịch sử của sự tha thứ và khám phá ra lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với con người. Lịch sử ấy có những đòi hỏi như Gioan Baotixita mách bảo chúng ta : « Hãy sửa đường Chúa », nghĩa là : hãy hoán cải tâm hồn đón chờ Chúa đến.

Bài đọc I vang lên làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo : "Từ gốc Giêsê sẽ đâm ra một chồi và cũng từ gốc ấy sẽ đơm lên một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống… Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở... " (x. Is 11, 1-10).

Tin Mừng theo Thánh Matthêu (3, 1-12) trình bày cho chúng ta nhân vật Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, từ trong hoang địa, rao giảng kêu gọi dân Do Thái sám hối. Lời giảng tuy nghiêm nghị nhưng thu hút nhiều người. Gioan đã xuất hiện với những người đương thời như là hy vọng cuối cùng của một dân tuyệt vọng. Rất ít người nhận ra nhiệm vụ đích thực của ông là để " dọn đường cho Chúa", loan báo Chúa đến.

Gioan xuất hiện như Tiếng kêu trong hoang địa, mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú. Ông không kêu gọi người ta trở nên nhà khổ tu giống như ông. Ông rao giảng rằng : "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến ... chớ tự phụ nghĩ rằng : tổ tiên chúng tôi là Abraham. Vì ta bảo cho các người hay : Thiên Chúa quyền năng có thể khiến những hòn đá trở nên con cái Abraham. Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa." Kết quả là : "Dân thành Giêrusalem, khắp xứ Giuđêa và các miền lân cận sông Giođan tuôn đến với ông, thú tội và chịu phép rửa do tay ông trong sông Giođan." Lời của Gioan vẫn vang dội qua các thời đại và như một sứ điệp cấp bách gửi đến với chúng ta ngày hôm nay.

Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu gọi : "Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Mùa Vọng năm nay, chúng ta đang sống như thế nào, nếu không phải là chuẩn bị tâm hồn, giục lòng tin, cử hành Phụng vụ cho sốt sáng để lãnh nhận Ân Sũng mà Chúa Kitô đã mang đến trong thế gian cho mọi người hưởng nhờ. Trong năm vừa qua, chúng ta đã đi trọn con đường đặc biệt cử hành Năm Thánh Lòng Thương Xót. Giờ đây, có thể nói là bốn tuần của Mùa Vọng là như "tiền đường" để bước tiếp vào những ngày thánh. Chúng ta hãy chuẩn bị tinh thần bằng lời cầu nguyện, ngõ hầu Mùa Giáng Sinh sắp đến gặp thấy chúng ta sẳn sàng tiếp đón Ðấng Cứu Thế ngự đến!

"Hãy ăn năn thống hối". Ðể gặp được Ðấng cứu thế, con người cần phải hoán cải chính mình, nghĩa là tiến đến cùng Chúa Kitô với đức tin tươi vui, bỏ đi những cách thức suy tưởng và nếp sống ngăn cản chúng ta sống theo Chúa cách trọn hảo.

"Vì nước trời gần đến". Công Đồng Va-ti-ca-nô II dạy rằng : Chúng ta không biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại, chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị. Hạnh phúc nơi ấy sẽ thỏa mãn và đắp đầy mọi ước vọng hòa bình trào dâng trong lòng con người. Khi ấy, sự chết sẽ bị đánh bại, con cái Thiên Chúa sẽ phục sinh trong Chúa Kitô và những gì được gieo vãi trong yếu hèn, mục nát, sẽ mặc lấy sự không hư nát ; tình yêu và các hoạt động bác ái sẽ tồn tại và toàn thể tạo vật mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ phù vân.

Chúng ta đã được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi đất mới không được làm suy giảm, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân Thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới. Trích "Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng ", § 39, 1-3.

Chúng ta hãy đặt vào tay Mẹ Maria Nữ Vương của niềm hy vọng mọi ước muốn tốt lành của chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta sống Mùa Vọng này cho xứng. Cầu chúc cộng đoàn chúng ta thăng tiến luôn mãi với ơn Chúa. Amen.


Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Last Edit: 7 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61939

.
SỐNG MÙA VỌNG

Sống mùa Vọng này với kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ Fatima, chúng ta sẽ có một cái nhìn phải đổi mới chính mình và Hội Thánh mình trên Quê Hương ViệtNam.

1. Để kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh năm nay. Hội Thánh dạy chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn một cách sốt sắng. Thời gian chuẩn bị kéo dài bốn tuần lễ. Thời gian đó quen gọi là mùa vọng.

Suốt Mùa Vọng, tôi cầu nguyện và làm những việc mà Phụng Vụ chỉ dẫn.

Kinh nghiệm trong Ơn Chúa Thánh Thần, tôi nhấn mạnh nhiều hơn đến mấy việc sau đây. Xin phép được chia sẻ vắn tắt.

2. Việc thứ nhất là tăng cường những liên đới thương cảm.

Phúc âm thánh Gioan dạy: “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Tôi hiểu: vì thương yêu tôi, nên Chúa giáng trần. Tôi tin Chúa giáng trần, là để cứu tôi. Tôi đón nhận Người bằng sự tôi tin vào tình yêu của Người, và bằng sự tôi thương người khác, như Người đã phán: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).

3. Theo kinh nghiệm, tôi thấy những việc yêu thương nhau giữa chúng ta, nếu muốn được là“như Chúa yêu thương chúng ta”, thì chúng ta phải có lửa yêu thương thực sự do Chúa chia sẻ cho. Lửa yêu thương đó được tôi gọi là thương cảm.

4. Thương cảm là một tình yêu cho đi. Nó như lửa. Vui vì được hi sinh cho người khác. Cho đó là ý nghĩa đời mình.

5. Tới đây, tôi nhớ tới những thương cảm, mà tôi đã nhận được từ bao người dành cho tôi. Những thương cảm đó rất sống động, tuy rất âm thầm, rất kín đáo, và rất bé nhỏ. Những thương cảm chân thành đó đã cứu tôi, đã giúp tôi nhận ra Chúa, đã đưa tôi về với Chúa, một Chúa là tình yêu hi sinh trên thánh giá.

Cũng chính những thương cảm đó đã mở rộng lòng tôi ra, để tôi biết nhìn mọi người bằng cái nhìn yêu thương của Chúa. Phải nhận sự thực này là: đối với những người nghèo khổ bệnh tật, cô đơn, chúng ta tuy có giữ liên đới, nhưng thường vẫn thiếu thương cảm thực sự.

6. Việc thứ hai là tăng cường những thứ tha, lấy yêu thương xoá bỏ hận thù.

Tôi tin lời Chúa phán:

“Thiên Chúa sai Con Một Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).

Tôi tin như thế. niềm tin của tôi được thể hiện bằng sự chính tôi cũng biết bắt chước Chúa, mà tha thứ, mà không lên án.

7. Tôi sẽ xin với Chúa Cha cũng một lời cầu của Chúa Giêsu xưa trên thánh giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, Vì họ làm nhưng không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

8. Suốt cuộc đời dài của tôi, tôi đã gặp được không ít những tấm lòng thứ tha quảng đại. Những tấm lòng đó đã giúp tôi sống nhẹ nhàng, chỉ có yêu thương, chứ không nặng nề với những hận thù và kết án.Những tấm lòng đó là những hạt giống Tin Mừng đang được gieo vào lịch sử Đất Nước tôi. Cần phải có thời gian, để những hạt giống đó nảy sinh ra cánh đồng an bình yêu thương.

9. Nhưng cũng rất cần tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa vào những cám dỗ xa lìa những cơ hội để tha thứ. Nếu tôi cứ khăng khăng quả quyết: chính họ phải xin lỗi chúng ta, thì chúng ta sẽ rất lầm, và dễ dánh mất cơ hội để hoà giải.

10. Việc thứ ba là cùng với Mẹ Maria tăng cường những khám phá ra những tiềm năng tốt trong lịch sử mình đang sống và nơi những người xung quanh mình.

Tôi luôn nhớ tới lời Chúa Giêsu nói từ trên thánh giá với môn đệ Gioan: “Đây là mẹ của con”(Ga 19,27).

Chỉ một tiếng: “Mẹ của con” đã giúp tôi khám phá biết bao tiềm năng tốt trong lịch sử mà tôi đã và đang trải qua.

11. “Mẹ” là cảm xúc gần gũi và ngọt ngào. Suốt đời tôi, nhất là trong mùa vọng, Mẹ Maria là tình yêu bao la đã và đang giúp tôi khám phá. Khám phá mà Mẹ giúp tôi thực hiện, thường kín đáo. Khám phá những sự lạ lùng Chúa làm trong thế giới các tâm hồn. Ngay tại Việt Nam hôm nay, vẫn có rất nhiều tâm hồn được Chúa ban cho những ơn rất trọng đại. Họ là những tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường.

Với Mẹ Maria, tôi nhìn thấy nơi nhiều đồng bào những điểm tốt, nhất là về nhân bản, nhân đạo, nhân cách.

12. Sống mùa vọng, như tôi vừa chia sẻ trên đây, sẽ không ồn ào và hoành tráng. Giống như Mẹ Maria xưa, khi mang thai Chúa Cứu Thế, nhiều tâm hồn sống mùa vọng đã và đang âm thầm tỉnh thức và cầu nguyện.

13. Nếu tôi thực sự cảm thấy mình còn xa những gì Chúa dạy tôi như trên, cái mình có vẫn còn quá ít, thì chính nhận thức đó sẽ giúp tôi nhận ra sự nghèo nàn của tôi, để càng tăng thêm hối cải và tin vào lòng thương xót Chúa.

14. Hiện tình Việt Nam là rất phức tạp. Hiện tình thế giới là rất căng thẳng. Chính vì vậy, mà mùa vọng này đang là một mời gọi Chúa gửi đến chúng ta. Chúng ta cần trân trọng đón nhận lời mời gọi tha thiết này của Chúa. Tôi có cảm tưởng là: thế giới đang bước vào thời kỳ mà quỷ Satan được phép lộng hành. Chỉ Chúa mới trị được nó mà thôi.

15. Năm 2017 sắp tới sẽ là kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Nhân kỷ niệm này, chúng ta nên nhớ lại những cảnh báo, mà Đức Mẹ đã nói ởFatima. Cảnh báo về một tình hình khủng khiếp sẽ xảy ra cho thế giới và cho Hội Thánh. Chỉ Chúa mới cứu được thôi.

Sống mùa Vọng này với kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ Fatima, chúng ta sẽ có một cái nhìn phải đổi mới chính mình và Hội Thánh mình trên Quê Hương ViệtNam.

Đổi mới. Phải đổi mới ngay từ bây giờ. Kẻo sẽ quá muộn. Khiêm nhường biết mình cần đổi mới là bước đầu tốt. Tự mãn coi mình không cần đổi mới, là tự sa chìm xuống vực thẳm hư vong.

16. Riêng tôi, tôi vui mừng cảm tạ Chúa, vì Chúa ban mùa Vọng này cho tôi, như một cơ hội chứa chan niềm vui và hi vọng.

Niềm vui và hi vọng này sẽ được chia sẻ rộng rãi trên khắp Quê Hương Việt Nam yêu dấu.

Niềm vui và hi vọng này cần có một cái nhìn sáng suốt và một tinh thần trách nhiệm cao.

Niềm vui và hi vọng này là của chung mọi đồng bào thân yêu, không phân biệt ai, không loại trừ ai. Mùa Vọng là của mọi người. Xin hết lòng cảm tạ Chúa giàu lòng thương xót.



Long Xuyên, ngày 24.11.2016

+ Gm. GB Bùi Tuần
Last Edit: 7 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61928

Mùa Vọng
.
Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Vọng - Phúc Âm theo thánh Matthêu Năm A

Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói chuyện với chúng ta một cách khẩn thiết và thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa : hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng.

Mùa Vọng, mùa chờ mong Chúa đến : Mong chờ ngày Chúa đến không phải ngụ ý chỉ đến trong ngày cánh chung của vũ trụ, nhưng đến nơi giờ chết của mỗi người. Chúa sẽ đến vào ngày giờ mà không ai hay biết, vì ngày ấy sẽ đến bất ngờ. Người ta sẽ không còn giờ để kịp chuẩn bị cho bất cứ điều gì.

Rồi đây sẽ có người được đem đi để hưởng lòng thương xót Chúa, và cũng có người bị bỏ lại, nghĩa là bị hư mất đời đời. Đó có sự khác biệt để rồi có ngày một người sẽ được đem đi, một sẽ bị để lại; nghĩa là một người được cứu và một người sẽ bị hư mất; một sẽ được hưởng vinh quang hạnh phúc với Chúa, và một sẽ mất hạnh phúc đời đời. Nói cách khác, được đem đi hay bị bỏ lại là do người ta người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không, có thay đổi thái độ sống hay không. Lời mời gọi của Chúa luôn khẩn thiết : vậy các con hãy tỉnh thức.

Tỉnh thức là thay đổi lối sống mới trong Đức Kitô, là từ bỏ cái nhìn và quan niệm theo lề thói thế gian, những đam mê tội lỗi, những việc làm thiếu lòng từ tâm, những lợi lộc cho bản thân mà hại đến người khác, từ bỏ nếp sống cũ theo xác thịt; siêng năng cầu nguyện, một đời sống năng kết hợp với Chúa không ngừng, một đời sống mới theo gương Đức Giêsu Kitô.

Trong mùa Vọng giáo hội nhắc nhủ chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bê lem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi mọi người, mọi biến cố nhất là nơi thánh kinh, thánh thể và các bí tích của hội thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người.

Trong suốt mùa Vọng này giáo hội luôn không chỉ kêu gọi chúng ta cải thiện đời sống, trung thực hơn với niềm tin đã lánh nhận mà còn mời gọi chúng ta bắt đầu xây dựng lại mối tương quan thân tình hơn với Đức Kitô. Cầu nguyện thống hối và làm việc bác ái là những công việc cần thiết để chuẩn bị đón Chúa đến. Mùa Vọng đánh dấu thời gian khởi điểm của năm phụng vụ mới. Trong suốt mùa Vọng, các bài đọc Chúa Nhật gợi lên cho chúng ta những viễn cảnh thời khắc Chúa ngự đến.

Lạy Mẹ Maria là nguồn hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giê su cho chúng con trong năm phụng vụ mời này và suốt cả đời chúng con ơn nhận biết hội thánh là con đường hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng con được ơn cứu rối. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu mến và vâng phục hội thánh và Đức Giáo Hoàng để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giê su con Mẹ.

Xin Chúa ban cho chúng con luôn tỉnh thức, biết sẵn sàng chờ đón Chúa đến bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái yêu thương, và xin ban cho chúng con biết tích cực chuẩn bị tâm hồn bằng cách sống tinh thần sám hối.
Amen.
Last Edit: 7 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 4 months ago #61901

.
Lễ Chúa Ki tô Vua

Năm 1925 Đức Thánh cha Piô X đã thiết lập ngày lễ Chúa Giê su Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền cho dân Chúa khắp nơi, mừng lễ này vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng 10.

Trong một bản tông huấn, ĐTC cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua : thế giới cần một nền hòa bình chân thật, nhưng hòa bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương, và là Vua hòa bình.

Về sau khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, tức là Chúa Nhật thứ 34, trước khi vào Mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.


Thói thường khi quân Rô ma đóng đinh ai, cũng đều kèm theo một tấm bảng, ghi rõ tội danh của kẻ phạm tội, phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Phi la tô muốn chế nhạo người Do Thái, bằng cách cho treo trên đầu thánh giá tấm bảng có hàng chữ :" Đây là vua dân Do thái" Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Kitô Giê su : Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là vua nhân loại.

Việc làm vô tình của Phi la tô, lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng : Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi. Chúa Giê su đáp : Ta bảo thật ngươi : ngay hôm nay người sẽ ở trên thiên đàng với Ta. Không có lời an ủi cho người sắp chết bằng lời đó.

Anh tội phạm là người diễm phúc nhận biết Chúa Giê su là Thiên Chúa, là Vua Do Thái. Anh ta thấy được là Đức Giê su ngước mắt lên trời và những gì anh nghe được lại là :"Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chính việc thấy và nghe kia, đã hình thành trong anh một cảm súc kính phục chân thành. Anh thương Người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con Người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát, nơi con người Giê su đó vẫn toát lên tình thương và long khoan dung tha thứ. Anh can đảm lên tiếng bênh vực Ngài :"Ông này đâu có làm gì sai trái " anh khám phá ra vương quyền của Ngài.


ChaLaVua.jpg


Lễ Chúa Kitô Vua, là một cơ hội tốt để chúng con ôn lại lời cam kết của chúng con đối với Chúa và để đặt câu hỏi lâu này đã cố gắng đến đâu để cho vương quốc Đức Kitô ngự trị trong gia đình và cộng đoàn giáo xứ. Chúa Giê su luôn kêu gọi chúng con hãy trỗi dậy, thoát khỏi bản năng cố hữu như ích kỷ, kiêu căng tự phụ. Đồng thời muốn chúng con nhiệt thành hy sinh phục vụ cho nước Trời.

Thập giá và khổ đau, cũng sẽ là ngai vàng của chúng con, nếu chúng con hoàn toàn học biết vâng theo cuộc sống của Chúa Kitô, Vua vũ trụ, vua cõi lòng chúng con.

Chúng con kính mến, suy tôn Chúa Giê su Kitô là Vua nhân từ yêu thương. Xin Chúa nhớ đến chúng con trên mọi hành trình trên dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, chúng con đang tìm thấy hòa bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, xã hội và thế giới. Xin Chúa Ki tô làm Vua cai trị lòng chúng con suốt đời.
The administrator has disabled public write access.

Hiệp thông Tin Mừng hôm nay 7 years 5 months ago #61880

.
ANH EM LÀM CHỨNG CHO THẦY
(13.11.2016 – Chúa nhật 33 Mùa Thường niên, năm C, Kính trọng thể các thánh tử đạo Việt Nam)


Lời Chúa: Lc 21, 5-19

Nhân có mấy người nói về Ðền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Ðức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?” Ðức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục đâu.”
Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.”


Suy niệm:

Trong số 117 vị Tử Ðạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”
Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Ðê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.
Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.
Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Ðức Giêsu,
y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.


Cầu nguyện:

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.


Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
The administrator has disabled public write access.


VISITORS SINCE JANUARY 7, 2012