Welcome, Guest
Username: Password: Remember me
  • Page:
  • 1

TOPIC: NỮ SĨ TÀI DANH HỒ XUÂN HƯƠNG

Re: NỮ SĨ TÀI DANH HỒ XUÂN HƯƠNG 12 years 2 months ago #2192


  • Posts:1950 Thank you received: 658
  • Xin cho con luôn biết tín thác vào Chúa ! Khi an vui cũng như khi sầu đầy.
  • Văn Quyền.Vianney's Avatar
  • Văn Quyền.Vianney
  • Platinum Boarder
  • OFFLINE
Hồ Xuân Hương Thi Tập

Quả Mít
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra taỵ


Ốc Nhồi
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Ðêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.


Con Cua

Em có mai xanh, có yếm vàng,
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghêng ngang.
Xin theo ông Khổng về Ðông Lỗ,
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.


Bánh Trôi Nước

Thân em vừa trắng, lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Mời ăn Trầu
Quả cau, nho nhỏ, miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.


Ðền Thái Thú

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.

Tức Cảnh Tề Sở
Ðằng quốc tôi nay vốn nhỏ nhen,
Hai bên Tề Sở giữa mà len,
Ngảnh mặt lại Tề e Sở giận,
Quay đầu về Sở sợ Tề ghen.

Ðồng Tiền Hoển
Cũng lò cũng bể, cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Ðủ đồng ắt cũng đóng nên quan.

Dỗ Bạn Khóc Chồng
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng.
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em nhé.
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.


Sư Bị Ong Châm
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm,
Ði đâu chẳng đội để ong châm.
Ðầu sư há phải gì bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái lầm.

Sư Bị Làng Ðuổi
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.

Bọn Ðồ Dốt
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống, đem vôi quét trả đền

Cảnh Thu
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,
Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu.
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
Ơ hay, cánh cũng ưa người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.


Bà Lang Khóc Chồng

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi, thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng, chàng ơi, vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì, sao để lại,
Quy thân, liên nhục, tẩm mang đi.
Dao cầu, thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh kỳ, chàng ơi, tử tắc quy.


Ðánh Ðu

Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.

Tát Nước
Ðang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.
Mải miết làm ăn quên cả mệt,
Dang bang một lúc đã đầy phè.


Hỏi Cô Hàng Sách
Cô hàng lấy sách cắp ra đây!
Xem thử truyện nào thú lại say.
Nữ tú có bao xin xếp cả,
Phương hoa phỏng liệu có còn hay ...?
Tuyển phu mặc ý tìm cho kỹ,
Chinh phụ thế nào bán lấy may.
Kỳ ngộ bích câu xin tiện hỏi,
Gía tiền cả đó tính sao vay.


Hỏi Trăng
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.
Hỏi con bạch thố đà bao tuổi,
Hở chị Hằng Nga đã mấy con?
Ðêm tối cớ chi soi gác tía?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son.
Năm canh lơ lửng chờ ai đó?
Hay có tình riêng với nước non?

Ðền Trấn Quốc
Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau!
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn.
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ đâu đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.


Giễu Quan Hậu
Tình cảnh ấ, nước non này,
Dẫu không Bồng Ðảo cũng tiên đây.
Hoành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thúy lĩnh đen trùm một thức mây.
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay.
Hỡi người quân tử đi đâu đó?
Ðến cảnh sao mà đứng lượm tay.


Chùa Quán Sứ
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,
Trưa trật nào người móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo.


Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.


Chùa Hương

Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom.


Hang Thanh Hóa

Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố dương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo, rờ rậm rạp.
Lách khe nước rỉ, mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Ðến mới biết rằng hang Thanh Hóa,
Chồn nhân, mỏi gối, hãy còn ham.


Chợ Trời
Khen thay con Tạokhéo trêu ngươi.
Bày đặt ra nên cảnh chợ Trời!
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi, buôn danh nào những kẻ,
Chẳng nên mặc cả một đôi lời.


Ðài Khán Xuân
Êm ái, chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,
Một vũng tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây, chín rõ mười.


Chùa Xưa
Thày tớ thung dung dạo cảnh chùa,
Thơ thì lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, mang nghi ngóp,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lô.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức như ông được mấy bồ?


Quán Nước Bên Ðường
Ðứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Ðường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai thả lộn lèo.
Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này

Trích nguồn:Cựu Học Sinh Ngô quyền.com
Tin Mừng không chọn lựa đất sống - Tình Yêu chẳng chối từ gian nan
The administrator has disabled public write access.

NỮ SĨ TÀI DANH HỒ XUÂN HƯƠNG 12 years 2 months ago #2189


  • Posts:1950 Thank you received: 658
  • Xin cho con luôn biết tín thác vào Chúa ! Khi an vui cũng như khi sầu đầy.
  • Văn Quyền.Vianney's Avatar
  • Văn Quyền.Vianney
  • Platinum Boarder
  • OFFLINE
NỮ SĨ TÀI DANH HỒ XUÂN HƯƠNG
HoXuanHuong.jpg

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Tranh PBT (st)

Theo những tư liệu đáng tin cậy gần đây nhất thì nữ sĩ Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783), em cùng cha với Hồ Sĩ Đống, nguyên quán ở Làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Sĩ Danh đậu Hương cống (cử nhân) năm 1732.Tuy không ra làm quan, nhưng có con làm quan lớn nên ông được phong chức Hàn lâm thừa chỉ và hàm Thái bảo. Ông lấy người thiếp họ Hà, người xứ Kinh Bắc sinh ra Hồ Xuân Hương.

Ông Hồ Sĩ Danh mất khi Hồ Xuân Hương còn quá nhỏ, hai năm sau Hồ Sĩ Đống cũng qua đời. Không nơi nương tựa, bà mẹ đưa Hồ Xuân Hương về Thăng Long, ngụ ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây) - Hà Nội bây giờ.

Căn cứ vào ngày sinh, ngày mất của ông Hồ Sĩ Danh, ông Trần Thanh Mại đoán là Hồ Xuân Hương ra đời khoảng từ năm 1775-1780. Thời gian sống ở kinh thành bà được mẹ cho ăn học đàng hoàng nhưng không nhiều lắm. Sau đó gia đình bà dời về thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương - nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội.

Khi trưởng thành, Hồ Xuân Hương có ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây, lấy tên là "Cổ Nguyệt Đường" (chữ cổ ghép với chữ nguyệt thành chữ hồ). Cổ nguyệt có lẽ là phòng văn, nơi dạy học hoặc tiếp bạn bè của bà. Các nhà nghiên cứu văn học từ trước đến nay vẫn xếp Hồ Xuân Hương vào giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học thời Tây Sơn.

Hồ Xuân Hương là một chân dung thơ độc đáo vào bậc nhất trong thi ca Việt Nam. Nhà thơ Xuân Diệu tôn bà lên ngôi vị "Bà chúa thơ Nôm" bởi nhiều nhà phê bình văn học cho rằng, dưới ngòi bút của bà, tiếng Việt được thăng hoa một lần nữa và có sức sống bền bỉ hơn.

Góp nhặt tất cả những sáng tác của bà chỉ có khoảng hơn 60 bài. Số lượng tuy không nhiều nhưng nghệ thuật rất điêu luyện, chứng tỏ bà là một người sành sỏi và bản lĩnh trong nghề bút mực.

Hồ Xuân Hương dùng ngôn ngữ hằng ngày trong đời sống để đưa vào thơ Đường Luật. Bà không từ chối nghệ thuật ước lệ phong kiến, nhưng nhìn chung bà thích nói thẳng, nói thật, nói trực tiếp và gọi đích danh bằng tên cúng cơm các sự vật, hiện tượng chớ không nói chệch, nó tránh cho tao nhã.

Thế nhưng ai đọc thơ của Hồ Xuân Hương đều phải công nhận thơ bà rất giàu nhạc điệu với lối chơi chữ và sử dụng từ ngữ rất tài tình. Nhiều dịch giả nước ngoài khen thơ Hồ Xuân Hương không tiếc lời, nhưng than là khó mà dịch nổi cả hồn lẫn xác của một bài thơ như bài Đánh đu.
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông

Trai đu gối bạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngữa ngữa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phất phới

Hai hàng chân ngọc duỗi song song

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
Hoặc bài Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm

Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom

Kẻ hầm rêu mốc trơ toen toẻn

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm

Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm

Con đường vô ngạn tối om om

Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc

Khéo hở hênh ra lắm kẻ dòm!

Về cuộc đời riêng của Hồ Xuân Hương, có lẽ điều đau khổ nhất là chuyện tình duyên trắc trở của bà. Hồ Xuân Hương muộn chồng, đến khi lấy được chồng thì cũng chẳng ra gì. Lần đầu bà làm lẽ cho Tổng Cóc, một tên cường hào dốt nát, hẳn với nhà thơ đó là chuyện đáng buồn. Theo một số tư liệu thì bà vâng lời mẹ lập gia đình, nhưng để thử tài người mà mình sẽ nhận làm chồng, bà ra câu đối dán trước cửa nhà và thách đối.

"Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới".

Trong làng có một người đối được là Tổng Cóc:

"Sáng mồng một, mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào".


Bà khen là đối chỉnh và chịu làm vợ Tổng Cóc. Sống với nhau một thời gian, Tổng Cóc mất, bà làm bài thơ khóc chồng, nhưng có lẽ là khóc cho số phận hẩm hiu của mình.

Hỡi chàng ôi! Hỡi chàng ôi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Ngàn vàng khôn chuộc dẫu bôi vôi...


Sau bà lại làm lẽ cho ông Phủ Vĩnh Tường, nhưng cuộc tình cũng chẳng có gì vui. Rồi ông Phủ Vĩnh Tường cũng qua đời, bà lại làm bài thơ.

"Khóc ông Phủ Vĩnh Tường"

Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!

Cái nợ ba sinh đã trả rồi

Chôn chặt văn chương ba thước đất

Tung hê hồ thỉ bốn phương trời

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất

Miệng túi càn khôn khép lại rồi

Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc

Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!

Và tủi cho thân phận làm lẽ, Hồ Xuân Hương đã cay đắng thốt lên:

"Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung...".

Trước đây người ta chỉ biết một Hồ Xuân Hương là tác giả của những bài thơ chữ Nôm được truyền tụng trong dân gian như: Bánh trôi nước, Quả mít, Dệt cửi, Dỗ người đàn bà khóc chồng chết, Đèo Ba Dội, Đá ông chồng bà chồng, Động Hương Tích, Chùa Quán Sứ, Sư Hổ Mang...

Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại lần đầu tiên công bố bà còn là tác giả của tập "Lưu Hương Ký" gồm 26 bài thơ chữ Nôm và 24 bài thơ chữ Hán. Như vậy, dù chưa biết đích xác về Hồ Xuân Hương bằng xương, bằng thịt, nhưng với những bài thơ do bà để lại - Hồ Xuân Hương vẫn đứng sừng sững trên thi đàn Việt Nam. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nói về bà:
Hồ Xuân Hương .

Nhưng người đó là ai?

Thật mỉa mai.

Không ai biết rõ

Như có như không, như không như có

Nàng ở làng Quỳnh

Nàng lại ở phường Khán Xuân

Mờ mờ tỏ tỏ

Khi thì nói cô là con Hồ Phi Diễn

Khi thì bảo cô là em Hồ Sĩ Đống

Khi thì nói nàng viết chữ Nôm

Khi thì nói nàng giỏi giang chữ Hán.

Và Nhà thơ Hoàng Trung Thông cũng bày tỏ quan điểm khi có người cho thơ Hồ Xuân Hương tục:

"Ai thẹn thì cúi đầu. Ai thích thì nghỉ lâu"


Hiện nay ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhà bia tưởng niệm nữ sĩ được xây dựng năm 1998 theo nguyện vọng của gia tộc họ Hồ. Bia được xây dựng từ Quỹ phát triển văn hóa Việt Nam - Thụy Điển. Trên bia có khắc bốn thứ tiếng Việt - Anh - Pháp - Trung đề cập đến sự nghiệp của bà. Nhà bia cách Quốc lộ 1A khoảng 2 km, có vị trí đẹp đầu làng./.

Lê Thị Hiếu Dân
Tin Mừng không chọn lựa đất sống - Tình Yêu chẳng chối từ gian nan
The administrator has disabled public write access.
  • Page:
  • 1


VISITORS SINCE JANUARY 7, 2012