Trước hết là những mâu thuẫn từ bên ngoài.
Ngày xưa việc huấn luyện và đào tạo linh mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở tiểu chủng viện. Các chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các chú còn được học một chương trình giống như các thanh thiếu niên ngoài đời, cho đến lúc mãn tràng, hết lớp đệ nhất hay lớp mười hai.
Giai đoạn thứ hai ở đại chủng viện. Các chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được tìm hiểu về những sự cao siêu trên trời.
Sau khi lãnh nhận chức linh mục và bước chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm và bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao siêu trên trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi phải đối đầu với những việc cụ thể dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo đức được tôi luyện trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít, cũng đã thấm được phần nào vào con người linh mục. Nhưng rồi những chi phối của thế gian nhiều lúc cũng đã làm cho cái chất đạo đức ấy bị phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ được học qua quít về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng dạy lại trở nên một trong những hoạt động chính yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao siêu trên trời, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống. Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời thường, để rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra cái chất sống ấy?
Là người luôn đứng trên bục mà dạy thiên hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại trở thành kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây không có nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin được hiểu là không còn được dạy bảo, như lời một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa mới được thụ phong linh mục như sau:
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu không ý tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết hiệp mật thiết với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ xứ không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng hơn, cụ xứ không còn sẵn sàng đón nhận sự soi dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những thành công gặt hái được và những trọng kính người ta dành cho mình, cụ xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là một bậc thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng, cho nên dễ dàng gạt bỏ thẳng thừng những ý kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực đoan, độc tài và độc đoán, không còn biết lắng nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho mình dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được, hay nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm đó, mà việc nào xem ra cũng phải được xếp vào bậc thầy, bậc sư phụ, bởi vì ngài là…thầy cả cơ mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về kiến trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp, xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí đến cả chuồng heo, chuồng gà. Thế nhưng, những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình:
- Cha xây, rồi cha lại cất. Xây nhiều thì cất cũng nhiều.
Trái lại, nếu không xây, thiên hạ bảo cha cù lần:
- Bao nhiêu năm cha ở với chúng con mà chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha chẳng lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi.
Rất lơ mơ về nghề xây dựng, nhưng vì là cụ xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này, bớt cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn xoành xoạch, đến độ quỷ thần cũng không lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về việc cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay đào ao thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải lăn xả vào những ngành nghề này, ít nữa là đưa ra những ý kiến mang nặng tính cách khoa học và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao đời sống.
Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải dấn thân. Thôi thì cha sở đi trước, làng nước theo sau. Hay nói cách khác:
- Đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày mà thôi.
Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài, đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao để dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt động của mình, luôn đứng ở giữa, không nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì thái quá thì bất cập.
Trong một bài báo với tựa đề: “Làm cụ xứ thời nay dễ hay khó?”, một tác giả đã đưa ra những nhận xét của mình như sau:
“Nếu cha giảng lâu quá mười phút – Cha lại nói thao thao bất tuyệt!
Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về Thiên Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây trên gió!
Nếu cha đề cập hơi nhiều đến các vấn đề xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả rồi!
Nếu cha chỉ cư ngụ trong khuôn viên Giáo Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với thế gian!
Nếu cha cứ cả ngày ở trong Nhà Chung – Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai cả!
Nếu cha thường xuyên đi thăm người này người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà Xứ!
Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và chứng Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là cha đã bán tống bán tháo các Bí Tích!
Nếu cha đòi hỏi cao hơn và nhiều hơn – Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những người trọn hảo!
Nếu cha thành công với thiếu nhi – Đạo của cha là đạo ấu trĩ!
Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân – Cha chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề của thời đại!
Nếu cha sửa sang Nhà Thờ – Cha lại ném tiền qua cửa sổ mất rồi!
Nếu cha không tu bổ gì – Cha đã bỏ bê mọi sự!
Nếu cha cộng tác chặt chẽ với Hội Đồng Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ mũi cha rồi!
Nếu cha không lập Hội Đồng Giáo Xứ – Cha độc tài quá đi mất!
Nếu cha hay mỉm cười – Cha quá dễ dãi!
Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một chuyện gì đó nên cha không nhìn thấy một người nào đó – Cha khinh người vừa vừa chứ!
Nếu cha hay bực bội vì một sai sót nào đó của người khác – Cha thiếu sự độ lượng nhân từ rồi đấy!
Nếu cha hiền hòa nhẫn nhục – Cha thiếu nghị lực quả quyết!
Nếu cha còn trẻ – Đúng là cha còn thiếu kinh nghiệm trường đời!
Nếu cha đã có tuổi – Xin mời cha nghỉ hưu đi là vừa!
Vậy thì, kính thưa cha sở, xin cha cứ can đảm lên nhé!”
Qua những cuộc tiếp xúc, gã cũng nhận thấy tương tự như vậy: một cha sở, nếu vui tính thì bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính, nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề chỉnh và ít đi lại thì bị khép vào hạng người kiêu kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động thì bị kêu là kẻ ham của cải vật chất, còn nếu ít làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng giả…
Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói:
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì cụ xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ xứ phải là người khôn ngoan như Salomon, bằng không thì sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn ngoan như Salomon chăng nữa, biết đâu lại chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải khôn ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và rắc rối quá đi thôi!
(Còn tiếp)