Welcome, Guest
Username: Password: Remember me
  • Page:
  • 1

TOPIC: Jerusalem

Jerusalem 6 years 4 months ago #63196

Quyết định của Trump với Jerusalem có tạo xung đột?
PGS.TS Nguyễn Phương Mai Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam

Israel coi Jerusalem là thủ phủ không thể chia cắt nhưng Palestine muốn Đông Jerusalem là thủ đô của nước họ trong tương lai
Việc ông Trump vừa ra tuyên bố công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel là một quyết định gây sốc, tranh cãi, và có tiềm năng tạo xung đột. Điều này xuất phát từ lịch sử phức tạp của miền đất này.

Miền đất di cư

Khoảng hơn 3000 năm trước, vùng đất rộng lớn phía tây bán đảo Ả Rập là nơi sinh sống của rất nhiều bộ lạc khác nhau từ xa di cư đến. Hai trong số họ là tộc người Israel đến từ Ur (thuộc Iraq bây giờ) do họ tin rằng Thượng Đế đã hứa ban tặng cho những đứa con cưng của mình một miền đất mới trù phú, điều này được viết trong Kinh Cựu Ước của người Do Thái.

Tộc người thứ hai từ vùng đảo Crete (Hy Lạp bây giờ). Người từ đảo Crete mạnh mẽ, thiện chiến, trở thành kẻ thù của nhiều tộc người khác do chiếm được nhiều đất đai, thậm chí gây hấn cả với Pharaoh Ai Cập. Họ được người Israel gọi là Peleshet (tiếng Anh - Philistine), có nghĩa là những người di cư và chiếm đóng. Cái tên Palestine lần đầu tiên được nhắc đến bởi một nhà sử học Hy Lạp, ám chỉ vùng đất nơi những người của nhiều bộ tộc khác nhau cùng đến di cư và tranh chấp.

Hơn 1000 năm sau đó, khu vực này nằm dưới sự trị vị của đế chế La Mã rộng lớn. Tộc người Israel khi đó đã lớn mạnh và thành lập nhà nước vững vàng nhưng cũng không thoát khỏi ách đô hộ của La Mã. Họ liên tục nổi dậy. Hoàng đế La Mã sau khi đập tan một cuộc cách mạng của dân Do Thái Israel thì quyết định đổi tên quốc gia này thành Palestine, sát nhập vào với cả vùng đất rộng lớn của các tộc người Ả Rập quanh đó nhằm xóa bỏ triệt để dấu ấn của nhà nước Do Thái. Cái tên Palestine và người Palestine tiếp tục được Syria, đế chế Thổ Nhĩ Kỳ và đế chế Anh dùng để chỉ vùng thuộc địa bao la của mình. Vùng đất Palestine về bản chất là một vùng đất không có đường biên rõ ràng, chỉ có hàng trăm bộ lạc lớn nhỏ sống bên cạnh nhau: người Ả Rập, người Do Thái, người Thiên Chúa, người Hồi, người từ đủ các cành nhánh tôn giáo nhỏ hơn. Tất cả bọn họ đều tự nhận mình là người vùng Palestine. Đó không phải là một quốc gia độc lập mà đơn giản chỉ là một cái sân chim, nơi đất lành chim đậu.

Chủ thuộc địa chia đất

Nhiều người cho rằng các nước Ả Rập thực lòng không muốn Palestine được độc lập.

Vùng Palestine luôn nằm dưới sự cai quản của một đế chế nào đó. La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman) coi Palestine là thuộc địa của mình nhưng giữ nguyên vùng đất này với cấu trúc thành phố tự trị và bộ lạc. Ottoman hùng mạnh chừng được 500 năm thì Anh và Pháp nổi lên. Để đánh sụp Ottoman, Anh Pháp đi đêm với tất cả các bộ lạc và sắc tộc ở Palestine và các vùng xung quanh, xúi giục họ nổi dậy chống lại kẻ đô hộ. Với sắc tộc nào Anh Pháp cũng hứa hẹn sẽ giúp họ chuyển đổi từ cơ chế bộ lạc và thành phố tự trị lên thành quốc gia, và cho họ quyền lập nhà nước tự chủ một khi đế chế Ottoman sụp đổ. Lưu ý khi đó "quốc gia" là một khái niệm và thể chế chính trị mới lạ, nhất là với các bộ lạc vùng Palestine.

Khi công việc đã xong xuôi, Anh Pháp chia nhau phần đất đai cai trị bằng cách kẻ vẽ các đường biên giới. Một vùng đất rộng lớn trở thành 5 quốc gia. Mỗi đường biên là một toan tính vô cùng cẩn trọng, vừa tạo sự cân bằng, vừa chia nhỏ để trị. Từ cơ thể Syria, Li Băng được Pháp xé ra hình thành một quốc gia mới với 5 tôn giáo khác nhau Thiên Chúa, Hồi giáo Sunni, Shia và Hồi giáo dòng Druze.

Kuwait được Anh đẻ non bằng cách vặt một mẩu từ Iraq nhằm mục đích chắn đường Iraq không cho ra biển (sau này cuộc chiến Iraq mang quân đánh Kuwait chính là để đòi lại đất ngày xưa). Đồn rằng, khi đang vẽ đường biên giới Jordan thì tự dưng ông Churchill hắt hơi một cái, thế là lãnh thổ của Jordan nguệch vào Saudi một phát. Churchill quẹt nước mũi, cúi xuống và tiếp tục đưa bút lượn trở lại vị trí cũ, thế cho nên đường ranh giới của Jordan trông mới kỳ lạ như vậy.

Cứ thế, các quốc gia mới của bán đảo Ả Rập được hình thành dưới quyền đô hộ của Anh và Pháp. Không có nước nào được độc lập trọn vẹn, thậm chí tộc người Kurd với dân số tới 40 triệu, dù được hứa sẽ cho lập nước nhưng cuối cùng bị phản bội trắng trợn khi vùng đất nơi họ sinh sống bị chia thành năm phần, nằm ngửa mặt dang chân dang tay thuộc về lãnh thổ của năm quốc gia khác nhau. Người Kurd cho đến bây giờ vẫn là dân tộc không quê hương lớn nhất và thảm thương nhất trong lịch sử hiện đại.

Quay trở lại thời điểm người Anh đi phân phát lời hứa. Không những hứa suông, họ còn hứa ba tầng chồng chéo lên nhau cho ba nhóm đồng minh khác nhau. Vùng Palestine rộng lớn được hứa khi Ottoman sụp đổ sẽ dành cho các bộ lạc Ả Rập để thành lập một hợp chủng quốc thống nhất. Rồi cũng chính miếng bánh đó lại được hứa cho gia tộc Hashimi danh giá từng thống trị vùng đất thánh Mecca của Hồi giáo. Cuối cùng, miếng mồi ngon béo được dùng để nhử một dân tộc đã hàng ngàn năm mất nước và tan tác khắp chân trời góc bể nhưng vẫn ngàn năm đau đáu nhìn về vùng đất tổ ở Palestine: người Do Thái.

Miền đất hứa như trong truyền thuyết

Trong chiến dịch tranh cử, ông Donald Trump đã hứa sẽ dời Đại sứ quán Hoa Kỳ từ Tel Aviv về Jerusalem.

Theo Kinh Cựu ước của người Do Thái, cách đây 3000 năm tại vùng Palestine, vua David lập nên Vương Quốc Israel nơi thành Jerusalem là trái tim của tôn giáo. Với dân tộc Do Thái, vùng đất này là những gì Thượng Đế đã hứa với tổ phụ của họ Abraham, như Kinh Cựu Ước đã ghi: "Ta ban cho con cháu của ngươi mảnh đất này, trải rộng từ sông Ai Cập đến sông Euphrates…". Vì thế đây còn gọi là miền đất hứa (The Promised Land). Đổi lại, Abraham và các con cháu của ông phải thực hiện nghi lễ rạch bao quy đầu - một cuộc phẫu thuật nhỏ mở phần da ở đầu dương vật - để được công nhận là người thừa kế miền đất hứa. Việc tại sao Thượng Đế lại đòi hỏi một cái điều kiện có vẻ "trời ơi" như vậy thì còn nhiều tranh cãi. Nhưng đại đa số cho rằng rạch bao quy đầu sẽ vệ sinh hơn do cặn bã không còn nơi tích tụ, và nghi lễ này cũng mang tính tượng trưng cho việc mở trái tim mình để hoàn toàn cởi lòng không vẩn đục với Chúa (circumcision of the heart).

Tại Jerusalem, con trai của vua David là vua Solomon xây một Đền Thờ Thiêng hùng vĩ nơi cất giữ bản "10 điều răn của Thượng Đế" (The 10 commandments) nổi tiếng. Cũng ở vị trí Đền Thờ Thiêng này là Tảng Đá Nền (Foundation Stone) nơi Người bắt đầu công việc tạo dựng nên Trái Đất, nơi Người vun đất nặn nên Adam ông tổ của loài người, và cũng là nơi Người thử lòng sùng đạo của Abraham bằng cách yêu cầu ông hiến dâng mạng sống của chính con trai mình.

Người Do Thái dựng nước chưa được bao lâu thì liên tục bị xâm chiếm bởi hết đế quốc này đến đế quốc khác. Người dân bắt đầu cuộc lưu lạc kéo dài hàng nghìn năm. Đền Thờ Thiêng bị người Babylon tàn phá, xây dựng lại thì đến lượt đế chế La Mã đốt trụi. Tất cả những gì còn lại của chốn linh thiêng nhất trong tôn giáo Do Thái là một mẩu bé xíu của bức tường khổng lồ vốn chỉ xây bao quanh để bảo vệ cho Đền Thờ Thiêng và một phần của Tảng Đá Nền. Người Do Thái ở Jerusalem cứ mỗi chiều tối thứ bảy lại tập trung dưới chân bức tường vừa đọc kinh Cựu Ước, vừa dập đầu than khóc.

Cái cách than khóc khi cầu kinh của người Do Thái cũng rất đặc biệt, họ gập người, liên tục đổ gục đầu về phía trước như một kẻ lên đồng, trên tay cầm cuốn thánh kinh nhỏ xíu vừa khít trong lòng bàn tay. Phụ nữ thường trùm lên đầu một chiếc khăn, đàn ông đội một miếng vải tròn nhỏ thể hiện sự tôn kính. Khi họ bước đi, những chùm dây dài thò ra ngoài cuốn xoắn theo từng bước chân. Tất cả để nhắc nhở người Do Thái rằng trên đầu và xung quanh luôn có Thượng Đế ngóng nhìn, và mỗi lời ăn tiếng nói, mỗi hành động, mỗi lời thở than của họ đều có thể lay động tới Đấng Tối Cao.

Nếu đến Wailing Wall, bạn sẽ được chứng kiến tiếng khóc, tiếng cầu kinh, tiếng than thân thống thiết của người Do Thái bên những viên đá còn sót lại của quá khứ. Thật khó có thể tưởng tượng người Do Thái đã than khóc vật vã như thế này suốt hơn 2000 năm qua. Đó là một nỗi đau được truyền từ đời này sang đời khác, không có cơ hội hàn gắn, sẻ chia, và lãng quên. Có những thời kỳ người Do Thái thậm chí còn không được bén mảng đến gần Jerusalem nếu không muốn khép vào tội chết. Mỗi năm một lần, vài vị vua của đế chế cầm quyền La Mã hào phóng ban tặng cho họ một ngày được đặt chân vào thành Jerusalem, đến gần bức tường, và cũng chỉ đủ thời gian để mà than khóc cho một đất nước tan tác, một tôn giáo bị vùi dập, cho số phận chốn thiêng liêng nhất của linh hồn dân tộc đã bị đốt thành tro tàn chẳng còn mấy dấu vết.

Trở về miền đất hứa

Tuy nhiên, lịch sử Do Thái như kể trên vẫn chỉ là từ cái nhìn của tôn giáo. Miền đất hứa sau bao thăng trầm của lịch sử, dân Do Thái chỉ còn chiếm có 3%, phần còn lại đa số là Hồi giáo Ả Rập. Năm 1897, một phóng viên Do Thái người Áo-Hung tên là Theodor Herzl dấy lên phong trào kêu gọi phục hưng nhà nước Do Thái tên là Zionism (bắt nguồn từ chữ Zion, chỉ Jerusalem).

Kể từ đó, Zionism khiến hàng ngàn người Do Thái quay trở về Palestine. Thượng Đế hứa cho họ miền đất này từ 3000 năm trước. Người Anh cũng đã lại chót hứa cho họ một quốc gia độc lập. Cộng thêm thảm họa diệt chủng Đức Quốc Xã giết 5 triệu rưỡi dân Do Thái sau năm 1945 khiến châu Âu cảm thấy cần có trách nhiệm nặng nề đền bù thiệt hại cho một dân tộc vừa bị tàn sát dã man.

Khi đó, làn sóng trở về lên đến đỉnh điểm, người Do Thái từ châu Âu ồ ạt tìm cách mua lại đất đai và bất động sản ở Palestine khiến người Ả Rập ở đây vô cùng tức giận. Liên Hợp Quốc (LHQ) bèn đề xuất việc chia vùng Palestine làm hai phần, một cho dân Do Thái Palestine lập nhà nước Israel, một cho dân Hồi giáo Palestine thành lập nhà nước Ả Rập thống nhất, riêng Jerusalem thì trở thành đặc khu quốc tế do LHQ kiểm soát.

Dân Do Thái Palestine đồng ý và lập tức thành lập nhà nước Israel. Tờ báo Palestine Post lập tức được đổi tên thành Jerusalem Post. Tuy nhiên, không giống như những đất nước được tạo nên bằng ngòi bút như Kuwait, Li Băng, Jordan… một trong hai quốc gia được Phương Tây vẽ ra lần này lại dành riêng cho một tôn giáo khác Hồi giáo và một sắc dân khác người Ả Rập. Dân Hồi ở Palestine kịch liệt phản đối. Họ cho rằng cả vùng Palestine phải được công nhận là một nhà nước độc lập duy nhất, và vì đa số dân chúng là người Hồi nên theo nhà nước mới thành lập phải là nhà nước Hồi giáo.

Chỉ một ngày sau khi nhà nước Israel non trẻ tuyên bố thành lập, liên minh 5 nước khổng lồ quanh đó gồm Ai Cập, Jordan, Syria, Iraq và Li Băng đồng loạt nổ súng tấn công với danh nghĩa đồng minh bảo vệ người Hồi Palestine thấp cổ bé họng. Đất đai giành giật, chiếm đi cướp lại xóa nhòa đường biên vốn do LHQ đề xuất. Israel mới đầu chỉ là tự vệ, sau càng chiến càng hăng, một mình đánh tan tác liên quân Hồi giáo. Năm 1967, trong một cuộc xung đột dài 6 ngày, quân Israel không những đánh bật Syria, Ai Cập và Jordan mà còn chiếm thêm vài khoảng lớn lãnh thổ của cả ba nước này, trên đà thắng thế chiếm luôn cả Jerusalem làm thủ đô, rồi kiểm soát cả một phần lớn vùng đất của người Hồi Palestine, đẩy hàng chục ngàn dân Hồi tị nạn không còn chỗ quay về, vì thế nên đây còn gọi là vùng bị chiếm đóng.

Liên quân Hồi giáo Ả Rập cay đắng đành chấp nhận thua cuộc, thậm chí phải xuống nước ký hòa ước với Israel để đổi lại các vùng đất bị mất. Cuộc chiến 6 ngày là một vết nhơ đầy nhục nhã trong thế giới Ả Rập, một vết thương không bao giờ lành, một mối thâm thù khiến người Hồi ở bất kỳ đâu cũng có thể xả thân xối máu để dành lại công bằng cho người Hồi Palestine. Đây cũng chính là lý do tại sao tổ chức (được coi là khủng bố) Hezbollah dòng Hồi Shia ở Li Băng được tung hô vì họ đã đẩy lùi quân Israel năm 2006, một phần rửa vết nhơ cho thế giới Hồi giáo.

Palestine

Palestine vốn là tên của một vùng đất. Palestine chưa bao giờ là một quốc gia độc lập, và cho đến tận bây giờ vẫn không được công nhận là nhà nước độc lập. Việc từ chối lời đề nghị chia đất của LHQ và sau đó tấn công Israel bây giờ nhìn lại hẳn là một lỗi lầm chính trị phải trả giá quá đắt. Palestine giờ đã trở thành biểu tượng của mối hằn thù tôn giáo, là kho chất nổ tiềm năng, chỉ cần độc lập là lập tức sẽ bị các nước Ả Rập xung quanh biến thành một cái vòi rồng, cuốn lũ xả bão san phẳng Israel đến ngọn cỏ cuối cùng.

Nhiều người cho rằng các nước Ả Rập thực lòng không muốn Palestine được độc lập. Bởi một Palestine tan tác trong bàn tay của kẻ chiếm đóng cũng đồng thời là thứ vũ khí lợi hại để các nhà độc tài Hồi giáo lợi dụng nhằm triệt hạ Israel, khuấy động lòng người hướng đến một kẻ thù chung, và đương nhiên là quên đi những vấn đề nội bộ còn đáng xấu hổ hơn gấp nhiều lần. Như người ta lợi dụng một đứa bé tàn tật bị ngược đãi để điều khiển dư luận lòng người. Đứa bé ấy khỏe mạnh lên thì tất nhiên là không ai có lợi. Rốt cuộc, cũng là một cách chia để trị, nhưng lại lấy danh nghĩa là tình thương.

Về phần Israel, đây là một đất nước với sức sáng tạo kỳ diệu đã khiến sa mạc phải nở hoa, nhưng cũng là kẻ thù không đội trời chung với gần như toàn bộ Trung Đông. Đối với người Israle, đây là đất nơi tổ tông họ 3000 năm trước từng hưng danh lập quốc, nhưng Israel đã và sẽ mãi mãi là chiếc gai đâm vào mắt cộng đồng Hồi giáo Ả Rập ở Trung Đông, như một kẻ đã đi xa đến mấy ngàn năm rồi bỗng dưng quay lại ngang nhiên mua đất rồi chiếm đất của người Hồi.

Jerusalem của Thiên Chúa Giáo

Các khu định cư Israel bị quốc tế lên án rộng rãi

Sau khi Do Thái giáo ra đời được khoảng 1000 năm, Jerusalem lúc đó đang bị đô hộ bởi đế chế La Mã và người Do Thái bị phân biệt đối xử, rất nhiều người phải bỏ xứ mà đi. Vào một buổi sáng mùa xuân năm 30, một người Do Thái trẻ tuổi tên là Jesus (Giê-xu) tiến vào thành Jerusalem trên lưng một con lừa. Quần chúng tiếp đón ông nồng nhiệt. Vì Kinh Cựu Ước của người Do Thái nói rằng một messiah, người được chọn lựa, Đức Vua tương lai của Israel sẽ xuất hiện một cách khiêm nhường trên lưng lừa. Thế nên ai cũng hào hứng và hy vọng.

Mỗi ngày mới, hàng trăm người lại tụ hợp nghe Jesus nói chuyện, ngay chính tại Đền Thờ Thiêng Do Thái khi đó vẫn còn chưa bị chính quyền thống trị La Mã thiêu hủy. Nhưng vì những điều Jesus đề cập đến trực tiếp đối đầu với quyền lực của tầng lớp đô hộ, chỉ sau chừng một tuần trụ lại Jerusalem, Jesus bị chính quyền La Mã đóng đinh thập giá. Sau khi Jesus chết, đại bộ phận người Do Thái không còn tin ông là messiah nữa. Đơn giản bởi vì Jesus không hoàn thành sứ mạng của một messiah, tức là đưa toàn bộ dân Do Thái biệt xứ trở về Jerusalem, đánh đuổi chính quyền đô hộ La Mã, và đem đến hòa bình cho toàn nhân loại.

Suốt những thế kỷ thăng trầm sau đó, những người Do Thái tin vào Jesus, tin ông chính là con trai của Thượng Đế và sự bất diệt của Người dần dần tách ra khỏi tôn giáo gốc và hình thành Thiên Chúa Giáo, nối thêm kinh Tân Ước vào kinh Cựu Ước của người Do Thái. Suốt trong 2000 năm sau đó, Jerusalem trở thành điểm hành hương quan trọng nhất của các tín đồ Thiên Chúa.

Jerusalem của Hồi Giáo


Do Thái giáo tồn tại được khoảng 1600 năm, Thiên Chúa giáo tồn tại được khoảng 600 năm, thì tôn giáo độc thần thứ ba ra đời từ trong lòng sa mạc sâu thẳm của bán đảo Ả Rập, cách Jerusalem khoảng 7 ngày đường bằng lạc đà. Chàng Muhammad trẻ trung nhận lời cầu hôn của một góa phụ giàu có hơn chàng đến 15 tuổi. Họ sống với nhau khoảng 20 năm hạnh phúc cho tới khi người vợ qua đời và Muhammad mới chỉ bắt đầu những bước đầu tiên truyền bá về một tôn giáo có tên là Người tuân lệnh (Islam).

Islam Hồi Giáo ghi nhận hầu như tất cả những nhân vật trong kinh Cựu Ước và Tân Ước, coi họ như những thiên sứ mà Thượng Đế tối cao đã gửi xuống mang thông điệp cho loài người. Jesus cũng được coi là một vị thiên sứ quan trọng, nhưng nhất định chỉ là thiên sứ người trần mắt thịt chứ không phải là con của Thượng Đế. Đối với họ, Jesus của Thiên Chúa giáo hay Moses của Do Thái giáo đều là những đấng tôn nghiêm, nhưng không phải là đấng để thờ phụng.

Khi Muhammad xuất hiện, ông tự xưng và được coi là thiên sứ cuối cùng của Thượng Đế, giới thiệu cho nhân loại Quran - cuốn kinh thánh bằng tiếng Ả Rập được ông nhấn mạnh là thông điệp gốc từ chính Thượng Đế, không hề bị thay đổi hay biến hóa trong quá trình được con người truyền bá như kinh Cựu Ước và Tân Ước.

Trong vòng hơn một năm đầu tiên của Hồi giáo, các tín đồ được Muhammad hướng dẫn quay về Jerusalem mỗi lần cầu nguyện. Nhiều học giả cho rằng Muhammad có thể muốn thúc đẩy quá trình cải đạo của cộng đồng Do Thái tại Mecca nên lấy Jerusalem - hướng cầu nguyện của người Do Thái luôn thể làm hướng cầu nguyện cho Hồi giáo. Tuy nhiên, chỉ hơn một năm sau đó, Muhammad tuyên bố Thượng Đế gửi thông điệp cho tín đồ Hồi giáo chuyển hướng cầu nguyện sang Mecca, nơi Muhammad được giác ngộ.

Theo kinh Quran, một ngày kia, Muhammad được Thượng Đế đưa lên thăm thiên đàng. Chuyến bay từ Mecca lên chín tầng trời có điểm dừng tại một thánh đường ở "nơi xa nhất", tiếng Ả Rập dịch là Al-Aqsa (Viễn Xứ). Chỉ có vậy, kinh Quran tuyệt nhiên không nói gì về tên của thành phố nơi thánh đường quan trọng này tọa lạc. Các học giả ngành thần học thường tranh luận khốc liệt để xem liệu Thánh Đường Viễn Xứ có phải là ở Jerusalem, và thành phố này có phải là nơi Muhammad dừng chân trong chuyến viếng thăm thiên đường ngắn ngủi? Tên thành phố Jerusalem thậm chí còn không được nhắc đến, dù chỉ một lần trong kinh Quran.

Tuy nhiên, sự thể được quyết định khi một cựu tín đồ Do Thái đã cải đạo sang thành người Hồi quả quyết rằng Muhammad đã cầu nguyện ở thánh đường Viễn Xứ và cất cánh lên thiên đàng từ chính Tảng Đá Nền ngay cạnh thánh đường Viễn Xứ trong khu Đền Thờ Thiêng của người Do Thái. Ngay lập tức, chính quyền Hồi giáo thống trị Jerusalem lúc bấy giờ lệnh cho một thánh đường lộng lẫy được xây vòng lấy Tảng Đá Nền, và được đặt tên là Dom of the Rock (Thánh Đường Đá).

Người Hồi giáo coi Thánh Đường Đá là một trong những chốn linh thiêng nhất của tôn giáo. Oái ăm thay, mảnh đất nơi Thánh Đường Đá được xây nên cũng là nơi Đền Thờ Thiêng từng đứng oai nghiêm, là nơi tột cùng linh thiêng của người Do Thái, là nơi người Thiên Chúa coi như chốn giao nhau giữa trời và đất, là nơi Thượng Đế vun đất nặn lên con người đầu tiên, là nơi cả tín đồ Do Thái lẫn Thiên Chúa tin rằng ông tổ của họ Abraham đã đặt con trai mình lên trên Tảng Đá Nền, và sẵn sàng cầm dao cắt cổ đứa con ruột thịt của mình, vì một khi Thượng Đế đã yêu cầu thì không cần phải biết lý do tại sao. Tảng Đá Nền vì thế có thể coi như một lò hạt nhân tôn giáo, nơi khí thiêng và tôn nghiêm không thể tích tụ đậm đặc hơn. Khách du lịch không thể bước chân vào Tảng Đá Nền, đơn giản vì bao trùm lên vị trí tột đỉnh linh thiêng của ba tôn giáo này giờ là Thánh Đường Đá của người Hồi và chỉ người Hồi mới có quyền bước chân vào.

Jerusalem của đa tôn giáo


Nhưng không cần phải chạm tay vào Tảng Đá Nền thì Jerusalem cũng đã khiến nhiều người ngạt thở. Từ hầu như bất kỳ chiếc cửa sổ nào ở Jerusalem, phóng tầm mắt ra xa bạn có thể nhìn thấy những tháp chuông nhà thờ Thiên Chúa với hình thánh giá, xen lẫn những vòng cung hình trăng lưỡi liềm trên đỉnh tháp gọi cầu kinh của các thánh đường Hồi giáo, và dưới thấp một chút là lúp xúp các mái vòm hình trứng của thánh đường Do Thái giáo. Những ngày cuối tuần Jerusalem chìm vào ba nhịp đập khác nhau, thứ sáu là ngày lễ của người Hồi, thứ bảy là ngày lễ của người Do Thái và chủ nhật của người Thiên Chúa.

Chỉ trong vòng 0.9km vuông, Jerusalem nắm gọn trong tay những địa chỉ hành hương quan trọng bậc nhất của ba tôn giáo độc thần lớn nhất thế giới, ba anh em cùng cha mẹ và cũng là ba kẻ thù lớn nhất của nhau. Bản đồ Jerusalem chia gọn gàng thành 3 phần, phần của người Do Thái, phần của người Thiên Chúa và phần của người Hồi.

Cả thành phố như một phim trường thời Trung Cổ với những lễ nghi tôn giáo thấm đẫm vào từng hơi thở của mỗi người dân. Mỗi lối rẽ ngoặt trái hay ngoặt phải đều có thể làm bước chân một kẻ ngoại đạo run lên trong từng nhịp cầu kinh thống thiết. Mỗi người dân ở Jersalem là một di tích lịch sử sống động: những chàng trai Do Thái dòng cổ điển tóc tết hai bím dài hễ nhìn thấy phụ nữ là tránh hẳn sang đường bên kia, các ông già người Hồi chậm rãi bước đi tay lần tràng hạt miệng lẩm nhẩm cầu kinh, hay một thân hình bê bết máu của một kẻ đóng vai Chúa Jesus vai vác thánh giá chân đeo xích sắt bước từng bước khó nhọc trên Con Đường Sầu Thương. Họ như bước ra từ một bộ phim, ai cũng như một kẻ vội vã vâng mệnh Chúa Trời, ai cũng chỉ có một mối lo duy nhất rằng mình không phải là con chiên ngoan đạo, ai cũng có con mắt của một kẻ mộng du, bàng quang với tất cả cõi trần, vừa bước chân vội vã trên những con đường lát đá cổ kính, vừa hướng cả thể xác lẫn tâm linh về một cõi xa xăm, nơi ai cũng tin rằng tình yêu của mình với Đấng Tối Cao là tấm vé chắc chắn để có thể gõ cổng thiên đường.

Từ hàng bao thế kỷ nay, Jerusalem là trung tâm của thế giới, là điểm giao nhau của ba lục địa Á Âu Phi. Trong suốt 3000 năm lịch sử gần đây, Jerusalem đã bị thiêu trụi 2 lần, bao vây 23 lần, tấn công 52 lần và bị trao qua tay các chính quyền đô hộ khác nhau 44 lần. Từ sau cuộc chiến 6 ngày, Jerusalem trở thành một phần của Israel. Hình ảnh những người lính súng ống chằng chịt từ đầu đến chân khiến cuộc sống tín ngưỡng đã đậm đặc càng trở nên căng thẳng. Jerusalem như một cái chuồng sắt nơi chúa sơn lâm, vua sư tử và mãnh tướng rồng lửa bị buộc phải sống cùng nhau và chia chác khẩu phần ăn một cách hòa thuận.

Hầu như tất cả những câu chuyện tôn giáo nổi tiếng nhất đều diễn ra ở đây, trong cái khoảng chưa đầy một km vuông này. Đằng sau những đường phố lát đá lộng lẫy của thành Jerusalem là cuộc sống tín ngưỡng cực điểm, là sự căng thẳng đến tột cùng của xung khắc tôn giáo như một quả bóng đầy hơi có thể bục tung bất cứ lúc nào. Ở Jerusalem, mỗi hòn đá là một câu chuyện kinh thánh, mỗi người dân là một tín đồ sẵn lòng tử vì đạo, mỗi ngọn gió tràn qua cũng có mùi thánh thần, một lời nói bâng quơ cũng có thể trở thành điều tiên tri chờ ngày ứng nghiệm. Sự hội tụ đậm đặc của tôn giáo và ức chế xung đột khiến nơi đây nổi tiếng với hội chứng có tên là Jerusalem Syndrome: Người nào yếu bóng vía sống ở đây lâu sẽ có cảm giác mình bước ra từ ...kinh thánh.

Jerusalem từ bao năm qua được mặc định sẽ là thủ đô của hai quốc gia: Israel với vùng Tây thành phố, và Palestine ở thì tương lai với phía Đông thành phố. Việc Trump tuyên bố Jerusalem là thủ đô của Israel mà không phân biệt Đông Tây, cộng thêm việc Saudi gần như ép Palestine chấp nhận một thị trấn nhỏ cách đó không xa làm thủ đô là một đòn giáng mạnh vào người Hồi. Hành động đó không khác gì sự bội ước, sự chèn ép của kẻ mạnh với đồng minh Saudi. Hơn thế nữa, nó cũng giống như việc một kẻ thứ ba - mang tiếng là người trung gian - nhưng lại đi đêm với bên A, và tuyên bố đất đai tổ tiên của bên B giờ là thủ phủ của bên A.

Nguời Hồi khắp nơi đang căm phẫn. Và nếu những giải pháp chi tiết hơn của ông Trump không có điều khoản nào đủ lớn để bù đắp, tiến trình hoà bình ở Trung Đông sẽ đi từ "bế tắc" đến "bùng nổ xung đột".


PGS.TS Nguyễn Phương Mai là giảng Viên môn Trung Đông học, ĐH Khoa học ứng dụng Amsterdam, Hà Lan và là tác giả cuốn "Con đường Hồi giáo" ghi lại chuyến đi dọc Trung Đông trong thời kỳ Mùa xuân Ả Rập.
Last Edit: 6 years 4 months ago by Đinh Cao Thắng.
The administrator has disabled public write access.

Jerusalem 6 years 4 months ago #63193

Tại Jerusalem, mỗi hòn đá đều có câu chuyện, mỗi cây ô liu là một lịch sử, và mỗi ngọn núi có tên khác nhau, tùy thuộc vào người kể cho chúng ta về những địa danh đó là ai. Bởi vì nơi đây là cội nguồn và nơi cùng chung sống của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới: Hồi giáo, Ki Tô giáo và Do Thái giáo.

Thành phố ngày nay là một bức tranh khảm vừa cổ kính vừa hiện đại. Từ các bức tường cũ kỹ đầy những cây bụi phủ rêu phong đến tuyến đường sắt hiện đại đi qua các cửa hàng cao cấp và khách sạn năm sao của khu phố đi bộ Mamilla. Cảnh quan sắc tộc của Jerusalem phản ánh sự đa dạng về dân cư, xã hội.

Bên cạnh vẻ đẹp cổ kính xen lẫn hiện đại của mình, Jerusalem cũng là khởi nguồn của những tranh cãi gay gắt bất tận. Đây là một thành phố bị chia cắt, một phần của người Ả Rập, một phần của người Do Thái, và các bên vẫn đang tranh đấu không ngừng nghỉ cho quyền sở hữu thánh địa này. Cả Israel và Palestine đều tuyên bố Jerusalem là thủ đô của nước mình. Israel đã chiếm Đông Jerusalem trong cuộc chiến tranh năm 1967 và sau đó sát nhập lãnh thổ này vào quốc gia Do Thái, nhưng cộng đồng quốc tế chưa công nhận chủ quyền này.

Ngoài nổi tiếng là vùng đất tranh chấp triền miên giữa Israel và Palestine, Jerusalem cũng được biết đến là thánh địa của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới là Ki Tô giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, những tín ngưỡng cùng chia sẻ nguồn gốc chung về Thánh Abraham.

Trung tâm của thánh địa này là ‘Thành phố cổ’, một mê cung những ngõ hẹp và kiến trúc lịch sử đặc trưng cho bốn phần dân cư: Ki Tô giáo, Hồi giáo, Do thái và người Armenian. Thành cổ được bao quanh bởi một bức tường và những ngôi nhà bằng đá pháo đài, cùng các địa điểm linh thiêng nhất thế giới.

Mỗi một thành phần chủng tộc, tôn giáo sinh sống tại ¼ lãnh thổ thành phố cổ. Người Ki Tô giáo có 2 phần vì người Armenia cũng kính thờ Chúa Ki Tô. Người Armenia sống ở ¼ nhỏ nhất và đó là một trong những trung tâm lâu đời nhất của người Armenia trên thế giới.


Vùng đất thiêng của Ki Tô giáo

jee1.jpeg

Những người hành hương Ki Tô giáo tổ chức thắp nến tại Nhà thờ Holy Sepulcher ở Jerusalem, theo truyền thuyết là nơi chôn cất của Chúa Jesus. (Ảnh Sebastian Scheiner/AP)



Khi bước vào bất kỳ một nhà thờ Ki Tô giáo nào, hình ảnh đập vào mắt chúng ta ở trên các bức tường chính là khung cảnh về thánh địa Jerusalem. Trên đó có vẽ các Trạm Thập tự là một chuỗi 14 bức ảnh miêu tả hành trình cuộc đời của Chúa Jesus cho tới khi qua đời. Vào mùa Lễ Mùa Chay các tín đồ Ki Tô giáo hàng ngày vẫn cầu nguyện trước mỗi bức tranh này. Với mỗi tín đồ điều quan trọng nhất trong cuộc đời họ là tới được Jerusalem và trở thành một người hành hương đi bộ qua đường Dolorosa – Con đường Đau khổ – theo bước chân của Chúa Jesus đã từng trải qua khi vác thập tự giá. Từ thời trung cổ, hàng ngàn Trạm Thập tự đã được tạo ra ở khắp nơi trên thế giới để cho phép bất cứ con chiên nào cũng có thể hành hương thông qua các bức tranh dù không có khả năng để thực sự tới được Đất Thánh.

Bethlehem là nơi sinh của Chúa Jesus, Nazareth là nơi Chúa lớn lên, nhưng Jerusalem mới là thành phố thực sự quan trọng đối với các tín đồ Ki Tô giáo. Đây là nơi mà Chúa Jesus thuyết giảng, dự ‘Bữa tiệc Cuối cùng’ với các môn đồ trước khi chết; cũng là nơi Chúa bị bắt, đưa ra xét xử, bị kết án tử hình, bị đóng đinh và qua đời; là nơi Chúa Jesus bị chế nhạo và tra tấn bởi những người La Mã chiếm đóng. Đó là nơi, các tín đồ tin rằng, ngôi mộ đã được tìm thấy trống rỗng và Chúa Jesus đã hồi sinh từ cõi chết. Do đó, Jerusalem là một nơi đau khổ sâu sắc, tuyệt vọng cùng cực, nhưng cũng là mảnh đất của hy vọng và cứu rỗi. Đó là trái tim thiêng liêng của câu chuyện Ki Tô giáo.

Nhà thờ tại Jerusalem được quản lý cùng nhau bởi các đại diện của các giáo phái Ki Tô giáo khác nhau, chủ yếu là Chính thống giáo Hy Lạp, các tu sĩ dòng Franciscan từ Giáo hội Công giáo La Mã và Hội dòng Armenia, và có cả người Ethiopia, Coptics và Giáo hội Chính thống Syria.

Jerusalem không chỉ là một nơi lịch sử cho các tín đồ Ki Tô giáo, nó cũng là phép ẩn dụ cho tất cả những gì mà họ khao khát trong thế giới này và thế giới tiếp theo. Đó là một nơi hoàn hảo, một thành phố hoàng kim, một thiên đường mà họ sẽ đạt được vào một ngày nào đó sau khi chết. Nó cũng đại diện cho việc tạo ra một trái đất mới.


Đế chế Hồi giáo ở Jerusalem kéo dài trong 12 thế kỷ


jee2.jpeg
Phụ nữ Palestine tham dự vào các buổi cầu nguyện thứ Sáu trong tháng lễ Ramadan tại nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa ở Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)

Jerusalem (trong tiếng Ả Rập là al-Bayt al-Maqdis – “Nhà Thánh hóa” – hay đơn giản là Al-Quds, “Thành Thánh”) là nơi quan trọng với người Hồi giáo vì nhiều lý do.

Trước tiên, Jerusalem là nơi đầu tiên mà tín đồ Hồi giáo hướng về cầu nguyện (qibla), trước khi nó được đổi sang hướng tới thánh địa Mecca. Khi Nhà tiên tri Muhammad bắt đầu sứ mệnh của mình vào năm 610 sau công nguyên, ông đã theo sau Do Thái và Cơ đốc giáo hướng về Jerusalem khi cầu nguyện hàng ngày và coi Hồi giáo là sự tiếp nối và đổi mới của dòng họ tín ngưỡng Abraham. Tuy nhiên, ông ước rằng Chúa sẽ thay đổi qibla tới Ka’ba ở Mecca và đó là những gì đã xảy ra sau đó.

Jerusalem cũng là một nơi quan trọng của chuyến hành trình tâm linh sâu sắc về đêm của Nhà tiên tri Muhammad được gọi là wal-Mi’raj của al-Isra (“cuộc hành trình ban đêm và hướng thượng”), trong đó ông đã được gặp hiện thân của Chúa. Cuộc hành trình này bắt đầu từ “nhà thờ Hồi giáo thiêng liêng” (al-masjid al-haram, tức là thánh địa Mecca) tới “nhà thờ Hồi giáo xa nhất” (al-masjid al-aqsa, tức là Thánh địa Jerusalem, còn gọi là Núi Đền).

Theo truyền thuyết Hồi giáo, nhà Tiên tri đã đi một cách kỳ diệu từ Mecca đến Jerusalem và sau đó đi lên qua bảy thiên đường, lên đến đỉnh điểm và có một cuộc trò chuyện trực tiếp với hiện thân của Chúa. Trước khi lên thiên đường, Nhà tiên tri Muhammad đã dẫn dắt linh hồn của tất cả các vị tiên tri trước đây của Chúa cầu nguyện, bao gồm tất cả các vị tiên tri trong Kinh thánh và truyền tụng trong người dân Do Thái. Chính theo cách tiếp nối đức tin Abraham này, mà người Hồi giáo thường coi al-masjid al-aqsa (còn được gọi là al-haram al-sharif, hay “Thánh địa Cao quý”) tại Jerusalem như “Đền thờ của Vua Solomon”. Thánh địa này đã trở thành nơi thiêng liêng thứ ba trong hành trình hành hương của các tín đồ Hồi giáo.

Các tín đồ Hồi giáo hành hương tới khu thánh địa này quanh năm, nhưng mỗi thứ Sáu trong tháng Ramadan, hàng trăm ngàn người Hồi giáo đến cầu nguyện tại “Thánh địa Cao quý”.

Luật Hồi giáo đã áp dụng ở Jerusalem kéo dài 12 thế kỷ, dài hơn bất kỳ hệ thống luật lệ nào khác, dù là của Do thái, La Mã, Ba Tư hay Cơ đốc giáo. Những điểm nổi bật về chính trị bao gồm cuộc chinh phục của Vua Hồi Omar, cuộc phục hồi của Saladin từ những người theo chủ nghĩa thánh chiến, và việc xây dựng lại các bức tường thành của Sulejyman. Ngoài ra, Jerusalem cũng có lịch sử tâm linh và trí tuệ Hồi giáo mạnh mẽ – ví dụ, nhà thần học Al-Ghazali được cho là đã dành cả năm để tĩnh tâm, thiền định và cầu nguyện ở một tháp giáo đường của “Thánh địa Cao quý”.

Từ năm 1967, đối với nhiều người Hồi giáo, Jerusalem đã trở thành biểu tượng kháng chiến chống lại sự chiếm đóng các lãnh thổ Ả Rập của người Israel và tình trạng của Jerusalem là một trong những vấn đề chính cần được giải quyết như là một phần của bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào giữa Israel và Ả Rập ở hiện tại và trong tương lai. Trong khi đó, các nhóm cực đoan và khủng bố như al-Qaeda, IS và lực lượng Al-Quds của Iran vẫn thường xuyên gọi “giải phóng Jerusalem” là một trong những mục tiêu chính của họ.


Với người Do Thái, Jerusalem là một lý niệm tôn giáo vượt thời gian



jee3.jpg

Những người Do Thái được phủ khăn choàng cầu nguyện thực hiện lời cầu nguyện ở Bức tường phương Tây tại Thành phố cổ Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)


Đối với người Do Thái, Jerusalem không chỉ là một địa điểm thực tế đầy ý nghĩa trong cả lịch sử Do Thái trong quá khứ và hiện tại, mà đó còn được coi là một lý niệm tôn giáo vượt thời gian. Khu vực này đã được người Do Thái đầu tiên, Abraham (năm 1800 trước Công nguyên) tìm ra trong khi đi vân du khắp các vùng đất để tìm “Miền đất hứa”. Theo truyền thuyết, nơi mà Abraham chuẩn bị quyên sinh đứa con trai Isaac của mình cho Thiên Chúa nhưng sau đã được lệnh không làm như vậy, bởi đây chỉ là một thử thách về đức tin dành cho Abraham, chính là địa điểm mà sau đó thành Jerusalem được xây dựng.

Sau khi người Do Thái đi tới Ai Cập để tránh nạn đói, bị bắt làm nô lệ và sau đó trở về Israel và David đã chọn Jerusalem làm thủ đô của vương quốc mình (khoảng năm 1000 trước công nguyên). Do đó, Jerusalem là một phần quan trọng của vương quốc đầu tiên của Israel. Jerusalem cũng đã trở thành trung tâm tôn giáo, vì ở đó là nơi vua của vương quốc Israel, Solomon đã xây dựng Đền thờ – trung tâm thờ phụng quốc gia. Người đứng đầu tất cả các hộ gia đình Israel đều được yêu cầu phải tổ chức một cuộc hành hương tới Đền thờ đó ba lần một năm để cùng nhau tổ chức ba lễ hội lớn.

Jerusalem là thành phố cực kỳ quan trọng trong thời kỳ đó và những ai không thể hành hương đến đây, ít nhất cũng nên hướng về đất thánh Jerusalem để cầu nguyện, trong trường hợp đó, lời cầu nguyện của họ sẽ được nghe như thể họ có mặt. Cho đến ngày nay, tất cả các giáo hội đều phải hướng về Jerusalem, để những tín đồ Do Thái được định hướng theo đúng truyền thống. Jerusalem bị phá huỷ hai lần, lần đầu bởi người Babylon vào năm 586 trước công nguyên, và lần thứ 2 là trong cuộc chiến Do Thái – La Mã vào năm 70 sau công nguyên.

Người Do Thái đã phải sống lưu vong trong 2.000 năm tiếp theo, nhưng trong trái tim họ Jerusalem vẫn còn nguyên vẹn như là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia. Khi nhà nước Israel được khai sinh vào năm 1948, một cách tự nhiên Jerusalem đã được phục hồi là thủ đô của đất nước.

Ngày nay, tại nơi Vua Solomon xây dựng Đền thờ vẫn còn lưu giữ được Bức tường Than khóc – Kotel hay còn gọi là Bức tường phía Tây – là nơi gần nhất mà người Do Thái cho rằng họ có thể cầu nguyện tới Đức Thánh Cha Abraham.


jee4.PNG

Tổng thống Mỹ Donald Trump đặt tay lên bức tường Than khóc

Bức tường phía Tây hàng năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch khắp nơi trên thế giới tới thăm quan. Người Do Thái từ năm châu cũng đến thăm nơi này để cầu nguyện và kết nối với quá khứ của họ.


Tân Bình
The administrator has disabled public write access.

Jerusalem 6 years 4 months ago #63188

.
Jerusalem - Vùng đất thánh ngàn năm xung đột

Hoa Hạ - Theo NY Times
.
jeru.jpg


Jerusalem được thành lập từ thiên niên kỷ thứ 4 TCN, nằm trên lưu vực Địa Trung Hải và Biển Chết. Đây là nơi Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá. Hàng năm, hàng trăm nghìn giáo dân trên khắp thế giới đổ về vùng đất thánh này. Jerusalem là tâm điểm trong xung đột suốt nhiều năm qua giữa Israel và Palestine.

Bạn có biết: Jerusalem là cội nguồn của 3 tôn giáo: Hồi giáo, Ki Tô giáo và Do thái giáo.

Nhà nước quản lý: Israel
Diện tích: 125.156 km2
Dân số: 882.652 người



***

jeru1.JPG


Có ý nghĩa quan trọng với cả người Do Thái, người Ki Tô giáo và người Hồi giáo nên từ thời Kinh thánh, thời của đế chế La Mã hay của các cuộc thập tự chinh, Jerusalem đã là đất thiêng của những tranh chấp. Đến giai đoạn hiện đại, khu vực này vẫn là điểm nóng của xung đột có nguồn gốc từ giai đoạn thực dân, giải phóng dân tộc và chủ nghĩa bài Do Thái. Ảnh: AP.

jeru2.jpg


Jerusalem: Vùng đất thánh nghìn năm xung đột

Tháng 12/1917, 100 năm trước, tướng Anh Edmund Allenby nắm quyền kiểm soát Jerusalem từ đế chế Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bước vào thành cổ bằng cách đi bộ qua cổng Jaffa, với tất cả lòng tôn trọng vị thế của Jerusalem. 3 thập kỷ sau đó chứng kiến làn sóng người Do Thái định cư ở đây với tư tưởng Jerusalem là quê nhà. Trong khi đó, số người Arab địa phương giảm xuống theo sự sụp đổ của đế chế Ottoman, vốn cai trị nơi này từ năm 1517

jeru3.jpg

Tù nhân Palestine ở Jerusalem dưới thời cai trị của Anh. Phản đối việc di dân đã khiến người Palestine gây ra một số cuộc bạo động nghiêm trọng, trong khi người Do Thái thách thức nhà cầm quyền Anh và lệnh hạn chế nhập cư đã được ban hành vào năm 1939. Điều này khiến nhiều người Do Thái không thể tới Jerusalem để trốn khỏi cuộc diệt chủng của Đức Quốc xã.

jeru4.jpg


Chính quyền Anh trục xuất người nhập cư Do Thái từ thành phố Haifa vào năm 1947. Sau Thế chiến, năm 1947, Liên Hợp Quốc đã thông qua kế hoạch phân chia cho 2 nhà nước - một Do Thái, một Arab - với Jerusalem được quản lý bởi "chế độ quốc tế đặc biệt" do tình trạng độc nhất của nó.


jeru5.jpg


David Ben-Gurion đọc Tuyên ngôn Độc lập của Israel vào ngày 14/5/1948 tại Tel Aviv. Người Arab bác bỏ kế hoạch phân chia. Một ngày sau khi Israel tuyên bố độc lập, khối các nước Arab tấn công Israel non trẻ và chuốc lấy thất bại.


jeru6.jpg

Rất nhiều người Arab và Do Thái đã phải di dời chỗ ở. Jerusalem bị chia cắt: nửa phía tây trở thành một phần của nhà nước Israel và tới năm 1950 trở thành thủ đô theo luật do Israel thông qua, trong khi nửa phía đông, bao gồm cả thành cổ, do Jordan quản lý.


jeru7.jpg

Sự kiện định hình rõ nhất xung đột quanh Jerusalem là cuộc chiến Arab - Israel năm 1967. Israel đã không chỉ đánh bại quân đội Arab mà còn nắm quyền kiểm soát Dải Gaza và Bán đảo Sinai của Ai Cập, khu Bờ Tây và Đông Jerusalem từ Jordan, cũng như Cao nguyên Golan từ Syria. Ảnh: Magnum Photos.



jeru8.jpg

Bức tường phân chia Đông và Tây Jerusalem, năm 1967. Chiến thắng của đảng cánh hữu Likud năm 1977 đã củng cố niềm tin cho người Israel rằng Jerusalem là một phần không thể tách rời của bản sắc Do Thái. Vai trò của Jerusalem đối với lịch sử Do Thái được nhấn mạnh trong các cuộc diễu hành quân sự và các chương trình giảng dạy. Đến năm 1980, các nhà lập pháp Israel thông qua một dự luật tuyên bố "Jerusalem, hoàn chỉnh và thống nhất, là thủ đô của Israel". Bước đi này khiến cộng đồng quốc tế phẫn nộ. Ảnh: Magnum Photos.

jeru9.jpg

Một cuộc đụng độ giữa người Israel và người Palestine tại Jerusalem năm 1993. Hiệp định hòa bình Oslo năm 1993 cho phép công nhận Tổ chức Giải phóng Palestine là cơ quan Palestine có quyền kiểm soát Bờ Tây và Dải Gaza nhưng trì hoãn một nghị quyết về các vấn đề cốt lõi: biên giới, người tị nạn và tình trạng của Jerusalem


jeru10.jpg

Đụng độ vẫn tiếp tục nổ ra. Năm 2000, chuyến thăm nhà thờ Hồi giáo al-Aqsa ở thành cổ Jerusalem của Ariel Sharon, lãnh đạo phe đối lập và sau đó là thủ tướng Israel, đã làm phật lòng người Palestine và gây ra cuộc xung đột bạo lực kéo dài 5 năm, lấy đi mạng sống của khoảng 3.000 người Palestine và 1.000 người Israel.

jeru11.jpg

Cảnh tượng sau một vụ đánh bom tự sát ở Đông Jerusalem năm 2001. Chủ quyền của Israel với Jerusalem vẫn chưa bao giờ được cộng đồng quốc tế thừa nhận.


jeru12.jpg

Binh sĩ Israel ngăn người Palestine vào khu vực Bờ Tây, năm 2016. Sau 6 tháng trì hoãn, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đưa ra quyết định về việc chuyển Đại sứ quán Mỹ tại Israel tới Jerusalem . Điều này thể hiện cam kết với Israel của Washington, nhưng chắc chắn sẽ gây ra làn sóng bạo lực mới trong khu vực.

jeru13.jpg


Một khu định cư Do Thái trong khu vực Đông Jerusalem. Hận thù Arab - Do Thái dai dẳng đã leo thang thành xung đột dân tộc, với Jerusalem ở vị trí trung tâm. Và cuộc xung đột này còn xa mới tìm được hồi kết.
Last Edit: 6 years 4 months ago by Bác Phan T. Thái.
The administrator has disabled public write access.
  • Page:
  • 1


VISITORS SINCE JANUARY 7, 2012