********
Truyện: xuất hình ư ngoại
Năm 1597 có lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.
Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: người gì mà để trái tim ra ngoài!
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn còn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ: “đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả”.
Từ đó, Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi:
- Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao?
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hoá và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi: đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh này tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư ợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó, hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục...
(Hồ Bặc Xái, Hạt giống nảy mầm, CN B, tr. 85-86)
Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã có tình yêu “hữu ư trung” đó. Cả cuộc đời thánh nữ gồm tóm trong chữ yêu, yêu Chúa tận tình. Trong bức thư thứ hai gửi cho chị em họ Marie Gúerin, thánh nữ say sưa viết:
“Tôi chỉ biết một phương thế đạt đến sự trọn lành: đó là yêu Chúa. Chúng ta hãy yêu Chúa bởi vì trái tim chúng ta chỉ được dựng nên để cho tình yêu”!
Tất cả cuộc đời của thánh nữ lại được tóm lại trong một tiếng YÊU. Yêu mãi, yêu hơn nữa, yêu cho đến khi nào trái tim ngất đi và ngã quỵ. Thế là không những sống trong tình yêu mà còn chết vì tình yêu như bài thơ “được chết vì yêu” mà thánh nữ đã viết.
Trái Tim Chúa phải là sức mạnh cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta thấy mệt mỏi, chán nản trên đường thiêng liêng, giao động trước những thử thách, hãy nhìn vào Trái Tim Chúa để múc lấy nguồn sức mạnh mà chiến đấu.